Trên truyền thông, một số linh mục chống Cộng của tu viện Thái Hà
nói riêng và Dòng Chúa Cứu thế Việt Nam nói chung thường làm như thể họ là những
hiệp sĩ thánh chiến, chuyên bảo vệ “công lý và hòa bình”. Trong khi đó, ngày
càng có nhiều blog lại cáo buộc rằng số linh mục này là những
phần tử phản động chuyên lợi dụng đức tin tôn giáo để chống phá nhà nước. Vậy
đâu là sự thật? Để có cái nhìn toàn cảnh về vấn đề phức tạp này,chúng ta cần
nhìn nhận lại lịch sử, nguyên nhân và cách thức chống cộng của một số linh mục
Dòng Chúa cứu thế để có đánh giá toàn cảnh và có cách ứng xử phù hợp với họ.
Mời các bạn đón đọc phóng sự dài 7 phần của chúng tôi.
Kỳ 1: Những nét chính trong lịch sử Dòng Chúa Cứu thế ở Việt Nam
1. “Tất cả vì người nghèo”
Hồi thế kỷ 18, khi đi tĩnh
tâm ở vùng núi Scala, Italy, tu sĩ Alphonsus Liguori đã gặp những nông dân, mục
đồng miền núi sống rất nghèo khổ, nhưng lại rất sùng đạo. Vì vậy, ngày 9 tháng
11 năm 1732, tại vương quốc Napoli, ông cùng một nhóm linh mục nhiệt thành lập
một dòng tu mới, ban đầu đặt tên là “Dòng Chúa Cứu chuộc”, sau đổi thành “Dòng
Chúa Cứu thế” (DCCT). Dòng này đặt mục đích truyền đạo cho những người nghèo
khổ, cô thân. Họ chọn câu “Tất cả vì người nghèo” làm phương châm hành động.
Từ đó đến nay, DCCT tập
trung truyền đạo cho các tầng lớp ở dưới đáy xã hội, như người nghèo, người ở
tù, người bị bỏ rơi, người bị bệnh phong, người nhiễm AIDS… Để việc truyền đạo
hiệu quả hơn, DCCT không chỉ dựa vào các tổ chức tu viện đơn thuần, mà còn lập
ra nhiều hội đoàn từ thiện và các dạng tổ chức chính trị - xã hội khác. Ba mũi
nhọn phát triển hiện tại của họ là ba vựa người nghèo của thế giới: Đông Nam Á,
châu Phi và châu Mỹ Latin. Hiện nay, họ có khoảng 6500 tu sĩ ở 77 nước.
Dòng Chúa Cứu thế ở Việt Nam
cũng được thành lập theo phương châm và khuynh hướng đó.
Năm 1923, theo yêu cầu của
Giám mục Henry Lecroart, Khâm sai Tòa thánh tại Việt Nam, Chủ tịch Thánh bộ
Truyền giáo Vatican là Hồng y Van Rossum (vốn thuộc DCCT) đã cho thành lập Dòng
Chúa Cứu thế tại Việt Nam. Tỉnh dòng thánh Anna Beaupre (Canada) được giao thực
hiện nhiệm vụ thành lập đó. Ngày 30 tháng 11 năm 1925, hai linh mục và một thầy
đồng trợ của DCCT ở Canada được gửi đến Đông Dương. Dòng này dần phát triển và
lan rộng từ ba trung tâm ban đầu, là ba “đền Đức Mẹ” ở ấp Thái Hà (Hà Nội), ở
Huế, và ở Kỳ Đồng (Sài Gòn). Đến năm 1964, DCCT Việt Nam mới trở thành một tỉnh
dòng độc lập.
Năm 2016, DCCT được giao cai
quản 14 giáo xứ của giáo phận Kon Tum ở Tây Nguyên, Việt Nam. Đây có thể là kết
quả của một trong hai, hoặc cả hai lý do chính. Thứ nhất, do thực hiện phương
châm chung của DCCT trên toàn thế giới, DCCT Việt Nam đã ưu tiên truyền đạo cho
các sắc tộc thiểu số, bao gồm những người Thượng ở vùng Tây Nguyên, trong một
thời gian khá dài. Thứ hai, dư luận bắt đầu đặt nghi vấn về việc DCCT đã bị một
số chức sắc cực đoan hướng lái, đã hướng đến Tây Nguyên để khai thác kho mâu
thuẫn từ đầu thập niên 2000 đến nay, khiến Tây Nguyên đã liên tục là một trong
những nơi chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn chính trị nhất trong cả nước.
Trong số các biến cố chính trị phát sinh từ Tây Nguyên, phải kể đến các cuộc
bạo loạn của hàng vạn người Thượng theo đạo Tin Lành trong năm 2001, 2004, và
phong trào phản đối dự án khai thác quặng bauxite ở Tây Nguyên.
2. Đặt trọng tâm vào truyền thông
Một điểm đặc trưng quan
trọng, hiện diện trong suốt lịch sử của dòng Chúa Cứu thế Việt Nam, là việc
dòng này luôn đặt trọng tâm vào truyền thông, dùng truyền thông để hỗ trợ
truyền đạo và xây dựng tầm ảnh hưởng chính trị. Trong lễ ra mắt chi nhánh Houston của
Truyền thông Chúa Cứu thế vào năm 2012, phần phát biểu của linh mục Lê Ngọc
Thanh, linh mục đặc trách về truyền thông của DCCT TP.HCM, có đoạn (3):
"Từ năm 1935, tức
là mới sau 10 năm sau
khi thành lập, thì
DCCT Việt Nam đã dấn thân vào truyền thông rồi và truyền thông trở thành một
cái ‘máu’ của DCCT vì nó là cơ hội giúp cho dân Chúa được nhiều nhất.”
Vào thời điểm hiện tại (đầu
năm 2018), “truyền thông Chúa Cứu thế” vẫn đang được xem là một trong những đơn
vị truyền thông mạnh, được đào tạo chuyên nghiệp, có cơ sở vật chất dồi dào và
hoạt động bền bỉ nhất trong các phong trào chính trị đối lập ở Việt Nam. Hằng
năm, “truyền thông Chúa Cứu thế” cũng mở các lớp dạy truyền thông, để đào tạo
cho nhiều nhóm đối lập cả trong lẫn ngoài đạo Công giáo.
Đế chế truyền thông của DCCT
Việt Nam ra đời vào ngày 1 tháng 7 năm 1935, khi dòng này xuất bản một tờ
nguyệt san bằng chữ quốc ngữ mang tên “Đức Bà hằng cứu giúp” ở Hà Nội (1). Số
báo đầu tiên in 2000 bản, khổ nhỏ, 24 trang, giá bán 1 đồng 1 năm. Đến năm
1940, mỗi số báo được in 5000 bản. Con số này cho thấy đây là một tờ báo lớn và
có ảnh hưởng vào thời đó, vì khi đó số người Việt Nam biết chữ không nhiều.
Trong số bốn tôn chỉ được
những người sáng lập vạch ra cho tờ báo, tôn chỉ đầu tiên là “rao giảng lời
Chúa cho người nghèo khổ bằng ngôn ngữ bình dân”. Đây cũng là tôn chỉ quan
trọng nhất, và giúp phân biệt “truyền thông Chúa Cứu thế” với những lực lượng
truyền thông Công giáo khác.
Vì khi tờ báo thành lập vào
năm 1935, DCCT chưa có linh mục người Việt nào, nên các linh mục người Canada
phải phụ trách toàn bộ mảng truyền thông. Linh mục Joseph Laplante là chủ bút
kiêm chủ nhiệm đầu tiên, phụ trách cả việc tập hợp bài viết, kiểm duyệt, biên
tập, dàn trang lẫn phát hành. Ông Đông Bích, một cây bút của tờ Trung Hòa Nhật
báo, phụ trách dịch các bài viết bằng tiếng Pháp của Laplante và các linh mục
người Canada khác ra tiếng Việt.
Năm 1944, khi Nhật chiếm đóng
Việt Nam, tờ báo bị đình bản sau khi ra số 105. Năm 1949, tờ báo được tái bản,
in khổ lớn (khổ A4), dưới tên mới là “Đức Mẹ hằng cứu giúp”. Vào thời điểm này,
chủ bút của tờ báo là linh mục Vũ Ngọc Bích. Báo được in từ 1000 đến 2000 bản
vào những ngày mới tái bản, rồi lên đến con số 50.000 bản vào cuối thập niên
1950.
Vào năm 1954, khi Việt Nam
bị chia đôi do hiệp định Geneva, có khoảng 1 triệu người miền Bắc di cư vào
Nam, trong đó có 800.000 người Công giáo. Mọi dòng tu ở miền Bắc đều di tản,
chỉ trừ một số đại diện của DCCT ở Thái Hà (Hà Nội). Số ở lại bao gồm hai linh
mục người Canada, linh mục Vũ Ngọc Bích, và hai tu sĩ người Việt. Trong số này,
hai linh mục người Canada lần lượt bị trục xuất vào các năm 1958 và 1959, cùng
những linh mục ngoại quốc cuối cùng ở miền Bắc Việt Nam. Hai tu sĩ người Việt
đều bị bắt đi tù vào đầu thập niên 1960, trong đó có một người chết trong tù.
Do biến cố năm 1954, tòa soạn của tờ “Đức Mẹ hằng cứu giúp” được
chuyển từ Thái Hà, Hà Nội vào Kỳ Đồng, Sài Gòn. Ngoài các nhà văn Công giáo,
ban biên tập mới của tờ báo cũng bao gồm nhiều nhà văn quân đội. Trong thập
niên 1960 và 1970, tủ sách Tuổi Hoa và chương trình “Mỗi quân nhân, một Thánh
kinh” là hai đều sản phẩm truyền thông của DCCT Kỳ Đồng được đông đảo giới trẻ
và quân nhân miền Nam Việt Nam biết đến (3).
Năm 1963, linh mục Chân Tín,
một người có quan điểm chính trị trung lập, được bổ nhiệm làm giám đốc tờ “Đức
Mẹ hằng cứu giúp”. Vì quan điểm trung lập của ông Tín không được ưa thích bởi
những người Công giáo ở miền Nam Việt Nam, nhất là những người di cư từ miền
Bắc vào, ông làm cả tờ báo bị độc giả phản đối. Vì vậy, ông phải bàn giao lại
tờ báo cho một linh mục khác.
Sau ngày 30 tháng 4 năm
1975, ban truyền thông của DCCT Việt Nam ngừng hoạt động. Đến năm 1998, khi
Internet bắt đầu phổ biến ở Việt Nam, truyền thông Chúa Cứu thế mới bắt đầu
hoạt động trở lại, nhưng ban đầu chỉ giới hạn dưới hình thức email (3). Đến năm
2005, dưới sự thúc đẩy của linh mục Phạm Trung Thành, DCCT Việt Nam mới mở
trang chuacuuthe.com. Trang này trở thành nơi đưa tin chính khi DCCT ở Thái Hà
đụng độ với chính quyền trong hai vụ tranh chấp đất đai vào năm 2008 và 2011,
và trở thành một trang truyền thông quan trọng trong phong trào chính trị đối
lập ở Việt Nam kể từ đó.
Ngoài trang web vừa kể, hiện
truyền thông Chúa Cứu thế còn có nhiều trang khác, như Tin Mừng Cho Người
Nghèo, ducme.tv và Radio An Phong.
Ngoài những nội dung liên
quan đến việc truyền đạo và đòi đất đai của dòng, các hoạt động truyền thông
của DCCT Việt Nam từ năm 2005 đến nay thường khai thác mâu thuẫn giữa chính
quyền với các gương mặt đối lập ở Việt Nam, các cựu quân nhân Việt Nam Cộng hòa
và các nhóm nông dân bất mãn. Truyền thông Chúa Cứu thế thường mô tả các đối
tượng vừa kể như những nhóm người cùng khổ, bị chính quyền áp bức và tước đoạt.
Song song với việc bênh vực và ca ngợi các đối tượng này trên mặt báo, DCCT
Việt Nam cũng thường xuyên tổ chức các hoạt động tiếp xúc, giao lưu với họ, và
cung cấp nhiều lợi ích vật chất cho họ dưới danh nghĩa hoạt động thiện nguyện.
Chẳng hạn, từ sau biến cố vào năm 2008 ở nhà thờ Thái Hà đến nay, DCCT ở Hà Nội
và TP.HCM đã thường xuyên cung cấp nơi ở cho các nhân vật đối lập đang trốn
tránh chính quyền, và cung cấp địa điểm để họ tổ chức những buổi hội thảo bất
hợp pháp. Từ khi ra đời vào năm 2013, Văn phòng Công lý & Hòa Bình của DCCT
Kỳ Đồng đã thường xuyên “cố vấn pháp lý” miễn phí cho các đoàn nông dân khiếu
kiện tập thể, và hỗ trợ truyền thông cho các cuộc biểu tình của họ. Ngày 28
tháng 4 năm 2014, văn phòng này tổ chức một sự kiện mang tên “Ngày tri ân
thương phế binh Việt Nam Cộng hòa”, trong đó họ hỗ trợ 1 triệu đồng/người cho
tổng cộng 435 cựu binh (4). Phương châm “tất cả vì người nghèo” của DCCT đã
phát huy tác dụng trong môi trường Việt Nam: từ năm 2011 đến nay, dòng này đã cải
một lượng lớn các gương mặt đối lập Việt Nam sang đạo Công giáo.
3. Nhận định: Một dòng tu dân túy có thù với chính quyền
Vì sao ngay từ khi được
thành lập vào năm 1932, DCCT đã dùng khẩu hiệu “Tất cả vì người nghèo”, và đã
tập trung truyền đạo cho những người nghèo, người bị bỏ rơi, hay những tầng lớp
ở dưới đáy xã hội? Khi một tổ chức tôn giáo đưa ra khẩu hiệu và theo đuổi
khuynh hướng kể trên, người ta thường đưa ra một trong ba lối giải thích. Một:môi
trường giáo dục của tổ chức này khiến họ thật lòng yêu thương người nghèo hơn
các tổ chức tôn giáo khác. Hai: họ tin rằng đời sống
khổ hạnh, nghèo đói giúp các tu sĩ dễ tiến bộ hơn về mặt tâm linh. Ba: họ
tin rằng so với các tầng lớp khác trong xã hội, người nghèo dễ gia nhập tôn
giáo hơn, nên truyền đạo cho họ sẽ dễ hơn.
Xem xét các đặc điểm của
DCCT trên thế giới và ở Việt Nam, chúng ta thấy lối giải thích thứ ba có vẻ hợp
lý nhất. Thứ
nhất, vì trước thập niên 1975, truyền thông Chúa Cứu thế yêu quý những
đồng đạo no đủ ở miền Nam hơn những người Cộng sản nghèo đói ở miền Bắc, rõ
ràng việc yêu thương người nghèo của DCCT không tách rời việc truyền đạo, và
DCCT không yêu thương người nghèo ngoài Công giáo một cách thật tâm. Thứ
hai, vì DCCT không phải là một dòng tu khổ hạnh, có thể thấy họ
không thật sự tin rằng những người sống trong cảnh khổ hạnh, bần hàn sẽ dễ tiến
bộ về mặt tâm linh hơn những người khác. Thứ ba, có nhiều bằng chứng
cho thấy ngay từ khi tu sĩ Alphonsus Liguori thành lập DCCT, ông đã chủ động
nhắm đến người nghèo vì tin rằng họ dễ gia nhập tôn giáo hơn các tầng lớp trên.
Chính DCCT cũng thừa nhận việc này, khi kể rằng Alphonsus đã lập dòng sau khi
gặp những nông dân, mục đồng miền núi sống nghèo khổ nhưng sùng đạo. Thêm vào
đó, cần lưu ý rằng DCCT được thành lập vào thế kỷ 18, khi cuộc cách mạng nghệ
thuật thời Phục hưng và cách mạng khoa học – kỹ thuật kế sau đó đã khiến cả
châu Âu xét lại quyền lực của giáo hội, và các cuộc cách mạng dân chủ sắp xảy
đến, đưa quyền lực thế tục lên ngôi. Vào thời điểm đó, rõ ràng những người dân
nghèo, ít học, ít được tiếp cận thông tin ở miền núi sẽ sùng đạo hơn những
người dân thành thị thường xuyên tiếp cận với nghệ thuật, khoa học và tin tức.
Ngoài ra, nếu DCCT thật sự
quan tâm đến người nghèo, thì họ đã dồn tiền cho các hoạt động thiện nguyện
hướng đến người nghèo nói chung, thay vì chỉ hướng đến những nhóm dân nghèo có
chung lợi ích chính trị với họ. Nếu DCCT muốn đạt được tiến bộ tâm linh bằng
phương thức khổ hạnh, họ đã thường xuyên tịnh khẩu như nhiều dòng tu khổ hạnh
trong Công giáo, thay vì xây dựng một đế chế truyền thông. Việc DCCT Việt Nam
đặt trọng tâm vào truyền thông và kết hợp truyền thông với từ thiện để lôi kéo
các nhóm dân nghèo bất mãn cải đạo sang Công giáo, cho thấy tính dân túy của
dòng này. Khẩu hiệu “Tất cả vì người nghèo” của họ thực ra không phục vụ người
nghèo, mà phục vụ việc truyền giáo.
Thêm vào đó, qua lịch sử của
DCCT ở Thái Hà trong giai đoạn 1954 – 1975, qua việc hoạt động của cả báo “Đức
Mẹ hằng cứu giúp” lẫn Văn phòng Công lý & Hòa bình đều gắn chặt với giới
quân nhân Việt Nam Cộng hòa và việc linh mục Chân Tín bị buộc phải rời ghế giám
đốc tòa soạn của tờ “Đức Mẹ hằng cứu giúp” vì quan điểm chính trị trung lập của
ông, có thể thấy DCCT bị thao túng, đẩy vào thế đối lập, hận thù dai dẳng với
chính quyền Việt Nam và truyền thông Chúa Cứu thế bị hận thù định hướng.
Tính dân túy và khuynh hướng
thù hận này ảnh hưởng đáng kể đến lợi ích của các nhóm dân nghèo mà DCCT Việt
Nam tiếp cận. Sau khi được DCCT giúp đỡ, các gương mặt chính trị đối lập và các
nhóm dân nghèo bất mãn thường không có đời sống khá hơn. Thay vào đó, họ ngày
càng bị cuốn sâu vào các xung đột với chính quyền, bị cắt kế sinh nhai và tự cô
lập mình với phần còn lại của xã hội. Chẳng hạn, các nhóm nông dân khiếu kiện
tập thể được DCCT cố vấn về mặt pháp lý thường thua kiện và trở thành các nhóm
biểu tình dai dẳng, thay vì đòi lại được đất để trở về canh tác. Những gương
mặt đối lập được DCCT cải đạo sang Công giáo thường trở nên cực đoan, ít cởi
mở, chậm tiến hơn, và tự cô lập mình trong cộng đồng Công giáo và cộng đồng
chống Cộng.
(còn tiếp)
Nguồn: Loa Phường
Ngày 05-02-2018
Chú thích: