Thứ Bảy, 9 tháng 9, 2017

BẢO ĐẠI TỪ CÔNG DÂN MỘT NƯỚC ĐỘC LẬP TRỞ THÀNH MỘT QUỐC TRƯỞNG BÙ NHÌN NHƯ THẾ NÀO?

Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh (giữa), Hoàng thân Lào Suphanuvong (trái) và cố vấn Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (phải).
Hôm nay, ngày 23-8-2017. Cách đây 72 năm, cùng ngày này, cả Thừa Thiên Huế nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Lúc 2 giờ 30 ngày 24-8-1945 Bảo Đại (Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy) đã gửi một bức điện tín cho Ủy ban Nhân dân Cứu quốc ở Hà Nội. Bức điện có đoạn viết: “Trước giờ phút quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban sớm tới Huế, để nhận lễ thoái vị”. Cùng ngày, Ủy ban Nhân dân Cứu quốc ở Hà Nội gửi điện trả lời báo tin Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thành lập và đồng ý với đề nghị của Bảo Đại về việc thoái vị.

Chiều 25-8-1945, đại diện Chính phủ lâm thời điện cho Bảo Đại yêu cầu ông ta “ban dụ chính thức thoái vị và sẽ cử đại biểu của Chính phủ lâm thời vào nhận lễ thoái vị”. Ngày 27-8-1945, phái đoàn của Chính phủ lâm thời gồm các đồng chí Trần Huy Liệu (trưởng đoàn), Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận rời Hà Nội. Chiều 29-8-1945, đoàn vào đến Huế. Bảo Đại tiếp đoàn tại điện Kiến Trung và chấp nhận những điều kiện và nghi thức lễ thoái vị.

Chiều 30-8-1945, lễ thoái vị được chính thức cử hành trước Ngọ Môn. Bảo Đại mặc triều phục hoàng đế đọc chiếu tự nguyện thoái vị. Đồng chí Trần Huy Liệu thay mặt Chính phủ lâm thời chấp nhận việc thoái vị của Bảo Đại và tiếp nhận ấn kiếm vàng tượng trưng cho sự chấm dứt quyền lực của triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Lá cờ “quẻ Ly” bị hạ xuống và lá Cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ của Việt Nam Dan chủ Cộng hóa được kéo lên trên cột cờ tại đại nội trước sự chứng kiến của đông đảo nhân dân Thừa Thiên Huế.

1- Từ Vua Bảo Đại trở thành công dân Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy:

Bảo Đại đã viết gì trong chiếu thoái vị của ông ta ? Sau đây là toàn văn “Chiếu thoái vị” của Bảo Đại.

“Vì hạnh phúc của dân tộc Việt Nam,
Vì nền độc lập của Việt Nam,


Muốn đạt được hai mục đích ấy, trẫm đã tuyên bố sẵn sàng hy sinh tất cả, và ước muốn rằng sự hy sinh của trẫm phải đem lại lợi ích cho Tổ quốc.
Nhận định rằng sự đoàn kết của toàn thể đồng bào chúng ta vào giờ phút này là một sự cần thiết cho Tổ quốc chúng ta, ngày 23 tháng 8, trẫm đã nhắc lại cho toàn thể nhân dân ta là: Ở giờ phút quyết định này của Lịch sử, đoàn kết có nghĩa là sống, mà chia rẽ là chết.
Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, trẫm e ngại rằng một sự tranh chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu trẫm đợi sau cuộc trưng cầu dân ý, để quyết định thoái vị. trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc tranh chấp đó, đưa cả nước vào sau hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng.

Trẫm không thể không ngậm ngùi khi nghĩ đến các tiên đế đã chiến đấu trên bốn trăm năm để mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa đến Hà Tiên. trẫm không khỏi tiếc hận là trong hai mươi năm ở ngôi, trẫm không thể làm gì đem lại lợi ích đáng kể cho đất nước.

Mặc dù vậy, và vững mạnh trong sự tin tưởng của mình, trẫm đã quyết định thoái vị, và trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa.

Trước khi từ giã ngai vàng, trẫm chỉ có ba điều muốn nói:

–Thứ nhứt: Trẫm yêu cầu tân chính phủ phải giữ gìn lăng tẩm và miếu mạo của hoàng gia.

–Thứ hai: Trẫm yêu cầu tân chính phủ lấy tình huynh đệ đối xử với các đảng phái, các phe nhóm, các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước, mặc dù không theo cùng đường hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp cho họ được tham gia vào sự kiến thiết đất nước, và chứng tỏ rằng tân chế độ đã được xây dựng trên tình đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân.

–Thứ ba: Trẫm yêu cầu tất cả các đảng phái, các phe nhóm, tất cả các tầng lớp xã hội cũng như toàn thể hoàng gia phải đoàn kết chặt chẽ để hậu thuẫn vô điều kiện cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa, ngõ hầu củng cố nền độc lập quốc gia.

Riêng về phần trẫm, trong hai mươi năm ở ngôi, trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước nô lệ.

Từ nay, trẫm lấy làm sung sướng được là dân tự do, trong một nước độc lập. trẫm không để cho bất cứ ai được lợi dụng danh nghĩa trẫm, hay danh nghĩa hoàng gia để gieo rắc sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta.

Việt Nam độc lập muôn năm,
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa muôn năm,

Khâm thử: Bảo Đại
Huế, điện Kiến Trung ngày 25 tháng 8 năm 1945”

Cùng với “Chiếu thoái vị”, Bảo Đại cũng ban hành một đạo dụ cho hoàng tộc nhà Nguyễn như sau:
“Kể từ ngày Đức Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Đế (tức Chúa tiên Nguyễn Hoàng – TMN) vào trấn ở Thuận Hóa đến nay đã 399 năm. Trong non bốn thế kỷ, Liệt Thánh chúng ta đã trải qua biết bao sự gian lao nguy hiểm vì nước vì dân, mới truyền ngôi lại cho trẫm được đến ngày nay.

Cái gia tài quý báu di truyền đã gần 400 năm ấy, trong giờ phút trẫm bỏ hết, bà con trong Hoàng Tộc, ai nghe cũng phải đau đớn ngậm ngùi.

Song trẫm biết rằng: đó chỉ là cái cảm tình thoáng qua trong chốc lát mà thôi, chớ bà con ta, ai cũng sẵn tính bình tĩnh, sẵn trí sáng suốt để xét rộng thấy xa, cho nên sau khi đã chuẩn định ba chữ “Dân Vi Quý” làm khẩu hiệu của chánh thể mới sau khi đã tuyên bố “Để Hạnh Phúc Dân Lên Trên Ngai Vàng”, nay trẫm nhất định thoái vị để giao vận mạng quốc gia cho một Chính phủ có đủ điều kiện huy động hết cả lực lượng của toàn quốc giữ vững nền độc lập của nước và mưu hạnh phúc cho dân.

“Độc lập của nước, Hạnh phúc của dân”, vì tám chữ đó mà trong tám chục năm vừa qua biết mấy mươi vạn đồng bào đã rơi đầu bỏ xác nơi nước thẳm non xa trong lao tù ngục tối.

Đối với những sự hy sinh của những kẻ anh hùng liệt nữ ấy, của muôn ngàn chiến sĩ vô danh ấy, trẫm cho sự thoái vị của trẫm là thường.

Vậy trẫm muốn bà con trong Hoàng Tộc sau khi nghe lời thoái vị ai ai cũng vui lòng để nghĩa nước lên trên tình nhà mà đoàn kết chặt chẽ với toàn thể quốc dân để ủng họ Chánh phủ Dân chủ Cộng hòa giữ vững nền độc lập cho Tổ Quốc. Thế mới là một cách chân thành cao thượng, giữ chữ Trung với trẫm, chữ Hiếu với Liệt Thánh.

Việt Nam Độc lập Muôn năm.
Dân chủ Cộng hòa Muôn năm.

Khâm thử: Bảo Đại”

Xét theo lời lẽ được viết trong “Chiếu thoái vị”“Đạo dụ” gửi hoàng tộc nhà Nguyễn thì Bảo Đại có vẻ như đã hoàn toàn lột xác. Việc ông ta tuyên bố: “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước nô lệ.” và nhận thức của ông ta thông qua câu dụ: “Độc lập của nước, Hạnh phúc của dân”, vì tám chữ đó mà trong tám chục năm vừa qua biết mấy mươi vạn đồng bào đã rơi đầu bỏ xác nơi nước thẳm non xa trong lao tù ngục tối… Đối với những sự hy sinh của những kẻ anh hùng liệt nữ ấy, của muôn ngàn chiến sĩ vô danh ấy, trẫm cho sự thoái vị của trẫm là thường” cho thấy việc thoái vị của ông ta là có sự cân nhắc suy xét, tính toán kỹ lưỡng và hoàn toàn chủ động chứ không phải là một việc làm hồ đồ nhất thời hay do run sợ vì bị cách mạng ép buộc.

Sau khi thoái vị trở thành công dân một nước độc lập, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đối xử rất tốt. Đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông ta làm Cố vấn tối cao cho Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông ta cũng được mời làm một trong 7 thành viên của Ủy ban soạn thảo Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946. Ngày 6-1-1946, trong cuộc Tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy được bầu làm đại biểu Quốc hội.

2- Không cưỡng nổi sức cám dỗ của tiền tài và danh vọng.

Những tưởng Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy đã hoàn toàn chôn vùi giấc mộng trở lại quyền lực nhưng chỉ sau nửa năm làm việc cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông ta đã không thể cưỡng lại dược tham vọng chính trị khi bị các thế lực ngoại bang tác động nhằm sử dụng cho mưu đồ chính trị của họ sau này. Bản thân Vĩnh Thụy cũng không thể cưỡng nổi sự cám dỗ mà các cơ quan đặc biệt nước ngoài đã đem đến cho ông ta.

Ngày 16-3-1946, Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy được cử tham gia phái đoàn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh thực hiện chuyến đi thăm Trung Hoa dân quốc để đàm phán về việc thực hiện Hiệp ước Hoa – Pháp 1946, rút quân đội Tưởng Giới Thạch khỏi miền Bắc Việt Nam. Tại đây, ông ta đã được các nhân viên mật vụ Mỹ “chăm sóc chu đáo” và đã không trở về Việt Nam sau khi chuyến thăm kết thúc. Khi đoàn về đến Côn Minh, các mật vụ OSS (Cơ quan tình báo chiến lược Mỹ) đã bố trí cho ông ta bí mật tách khỏi đoàn và đưa về Hồng Công. Tại đây ông ta đã có cuộc mật đàm với tướng 4 sao George Marsall của Mỹ và ông này đã đem về trình tổng thống Mỹ Harry Truman một bản mật ước giữa hai bên.

Trong mọi trường hợp tương tự thì việc trốn ở lại nước ngoài đều bị coi là phản quốc. Nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng ở Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy và cho rằng ông ta có lý do cá nhân nên chưa chịu về nước. Đầu tháng 12-1946, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn cử bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đem tiền và vàng qua Hồng Công cho Cố vấn Vĩnh Thụy chi tiêu. Đến trước tháng 8-1947, trả lời phỏng vấn của báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngần ngại đáp rằng: “Chúng tôi xa mặt chứ không cách lòng. Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoàn toàn tin tưởng vào sự trung thành của Cố vấn Vĩnh Thụy hiện đang ở nước ngoài nhưng vẫn tiếp tục làm việc cho chính phủ quốc gia mà Cố vấn vẫn là thành viên”.

Thấy Vĩnh Thụy cần tiền, các điệp viên Pháp đã vào cuộc và hỗ trợ tài chính cho ông ta, cứ mỗi tháng Pháp lại cấp cho Vĩnh Thụy 5.000 Dollar Hồng Công. Vĩnh Thụy trở lại cuộc sống xa hoa giàu có. Ông ta mua một toà nhà rất đẹp theo phong cách kiến trúc Anh, gần bờ biển Stanley Beach, thường hay tiếp khách ở Causeway Bay, cho họ nghỉ tại Hongkong Hotel hoặc ở Paramount hay Saint-Francis. Về sau, khi bán tài sản riêng ở Hồng Công, ông ta thu được một khoản tiền đến một triệu đồng Đông Dương. Jean Cousseau, trùm mật vụ Pháp ở Đông Dương, kẻ phụ trách việc chu cấp tiền cho Vĩnh Thụy đã nói với nhà báo Lucien Bodard: “Tôi tin sắp thành công đến nơi vì Bảo Đại rất cần tiền. Đó là một ông vua tầm thường, bị phế truất, không có tiền tiêu, không có hoài bão gì. Ông ta đang trong cảnh gần như khốn cùng. Thực tế đó là một công việc không dễ dàng chút nào. Tôi đã đem đến hàng triệu bạc, mà vẫn không đủ cho ông ta tiêu pha. Trở lại với cuộc sống ăn chơi xa hoa, Bảo Đại càng bị lôi cuốn…”

Đầu năm 1947, Cao ủy Pháp D’Argenlieu bị triệu hồi về nước do bị người Việt Nam và các đảng phái cánh tả Pháp căm ghét. Trước áp lực của các đảng phái cánh tả Pháp như Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Xã hội Pháp, Thủ tướng Ramadier, một đại biểu của Đảng Xã hội Pháp cho rằng chính phủ của ông ủng hộ nền độc lập và thống nhất cho Việt Nam: “Độc lập trong Liên hiệp Pháp cùng với liên minh của ba nước An Nam, nếu người dân An Nam mong muốn nó”. Và Pháp sẵn sàng đàm phán hòa giải với những đại diện chân chính của Việt Nam. Từ thời điểm này, con bài “Bảo Đại” được thực dân Pháp sử dụng trở lại.

Tháng 10-1947, thực dân Pháp mở chiến dịch tấn công lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt Quân đội Nhân dân Việt Nam, tiêu diệt Chính phủ liên hiệp kháng chiến của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và kết thúc chiến tranh. Người Pháp thấy đã đến lúc sử dụng con bài “Bảo Đại”. Với sự hồi thúc của trùm mật vụ Pháp tại Đông Dương Jean Cousseau, Vĩnh Thụy đã viết một lá thư gửi về nước xin từ chức Cố vấn tối cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhận xét về hành động này của Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân viết: “Bác Hồ rất tin tưởng cố vấn Vĩnh Thụy, nhưng cố vấn Vĩnh Thụy vốn rất nhu nhược, không vượt qua được sự túng thiếu về tài chính và các cạm bẫy của mật thám Pháp và các thành phần thân Pháp nên ông đã bị đẩy vào cái thế phải trở lại làm bù nhìn cho thực dân Pháp, phản bội lại chính nghĩa của quốc gia, chống lại kháng chiến giải phóng dân tộc, đối đầu với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã cưu mang và tin tưởng ông ta”.

3- Từ công dân một nước độc lập trở thành quốc trưởng bù nhìn.

Sau khi hối thúc Vĩnh Thụy viết đơn từ chức cố vấn tối cao, trùm mật vụ Pháp ở Đông Dương Jean Coussseau ngỏ ý ngỏ ý mời ông về nước nắm quyền, hình thành nên cái gọi là “giải pháp Bảo Đại”, một giải pháp chính trị nhằm chống lại cuộc kháng chiến giành độc lập của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lợi dụng xu hướng quốc tế trao trả độc lập cho các thuộc địa đồng thời nhằm chống lại sự mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương. Chính Bảo Đại cũng phải thừa nhận rằng: “Cái được gọi là giải pháp Bảo Đại hóa ra là giải pháp của người Pháp”.

Để hậu thuẫn cho Bảo Đại đàm phán với Pháp về cái gọi là độc lập của Quốc gia Việt Nam, thực dân Pháp đã huy động các lực lượng chính trị đối lập với Việt Minh như Cao Đài, Hoà Hảo, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân đảng và Việt Nam Quốc dân Đảng liên kết thành lập một tổ chức bù nhìn gọi là Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp ủng hộ Bảo Đại đàm phán với Pháp. Tháng 5-1947, cái gọi là Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp đã cử phái đoàn đến Hồng Công gặp Bảo Đại để thuyết phục ông ta thành lập một Chính phủ Trung ương và đàm phán với Pháp về việc trao trả độc lập cho cái gọi là Quốc gia Việt Nam.

Với sự bố trí của thực dân Pháp, Ngày 7-12-1947, tại cuộc họp trên tàu chiến Pháp ở Vịnh Hạ Long, Bảo Đại và Pháp đàm phán rồi ký kết Hiệp ước Vịnh Hạ Long. Hiệp ước thể hiện sự đồng thuận của hai bên về việc thành lập cái gọi là Quốc gia Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc độc lập và thống nhất của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, mặc dù nghĩa chính xác của từ “độc lập” và các quyền hạn cụ thể của chính phủ mới vẫn không được xác định. Do đó, Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp không khác gì một quốc gia bù nhìn. Theo bản Hiệp ước này, Quốc gia Việt Nam sẽ có một quân đội riêng. Tuy nhiên, quân đội ấy phải “sẵn sàng bảo vệ bất cứ phần đất nào của Liên Hiệp Pháp” cho nên quân đội ấy cũng chỉ là một tứ ngụy quân.

Do mâu thuẫn giữa Bảo Đại và các phe phái trong cái chuồng ngựa được gọi là Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp và do không thỏa mãn với địa vị thấp bé của mình trong Hiệp ước Hạ Long không thực hiện được nên từ cuối tháng 12-1947, Bảo Đại làm mặt “chảnh”, đi du hý Châu Âu trong 4 tháng liền. Cuối tháng 4-1948, thực dân Pháp lại phái Nguyễn Văn Xuân và Trần văn Hữu sang Hồng Công gặp Bảo Đại để đề nghị ông ta quay lại đàm phán.

Ngày 15-5-1948, Bảo Đại gửi thư cho Nguyễn Văn Xuân, tán thành việc thành lập Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam do Xuân đứng đầu. Ngày 8-3-1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam, đứng đầu là Bảo Đại với chức vụ Quốc trưởng. Cái Quốc gia Việt Nam bù nhìn với một quốc trưởng bù nhìn là Bảo Đại hoàn toàn nằm dưới sự điều khiển của thực dân Pháp đã được dựng lên như vậy đấy.

Tuy được người Pháp gọi là một chính quyền của một Quốc gia Việt Nam độc lập nhưng cái “nhà nước hư cấu” này không hề có quốc hội và cũng không có hiến pháp. Bản thân cái gọi là quân đội quốc gia của cái “thực thể chính trị hư cấu” này cũng hoàn toàn do nhà nước Pháp trả lương và trang bị, do quân đội Pháp huấn luyện và chỉ huy theo các kế hoạch tác chiến của quân đội Pháp. Nói cách khác, đó là đội quân người Việt trong quân dội Pháp.

Phản ứng trước hành động này, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố cái gọi là “Quốc gia Việt Nam” là một thứ ngụy quyền, một chính quyền tay sai Pháp, bởi nó đã đi ngược lại những mục tiêu giành quyền tự trị về quân sự, ngoại giao, kinh tế mà đoàn đàm phán của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giành được ở Fontainebleu, được thể hiện trong Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, trong Hội nghị trù bị Đà Lạt và trong Tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng tuyên bố với thế giới rằng chỉ có Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam, còn chính phủ do Bảo Đại thành lập là bất hợp pháp bởi nó được lập nên mà không thông qua bầu cử toàn dân.

Tuyên bố trên nhanh chóng nhận được sự ủng hộ khi vào ngày 18-1-1950, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và tiếp sau đó là Liên Xô cùng một loạt các nước xã hội chủ nghĩa khác công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Còn cái gọi là Quốc gia Việt Nam thì ngoài Pháp và mấy thuộc địa của Pháp ra, không có nước nào công nhận nó, kể cả Mỹ. Ngày 15-11-1951, thượng nghị sĩ Mỹ John F. Kennedy (sau này là Tổng thống Mỹ) đã phát biểu trên đài VOA: “Chính quyền các xứ Đông Dương là những chính phủ bù nhìn, những lãnh địa thuộc Pháp của các ông hoàng (ám chỉ Bảo Đại và các quốc vương Lào, Campuchia) với tài nguyên to lớn nhưng lại là những ví dụ điển hình của đế quốc và thực dân mà người ta có thể thấy bất kỳ nơi đâu”.

Trong tiến trình sau dó, thực dân Pháp đã coi thoả hiệp Élysée 1949 là một mớ giấy lộn và không bao giờ thi hành nó. Quân đội viễn chinh Pháp tiếp tục tham chiến tại Việt Nam, nhân viên hành chính Pháp tiếp tục nắm quyền lực ở tất cả các cấp hành chính từ phủ, huyện trở lên. Quốc gia Việt Nam không hề được trao cho một chút quyền hành thực sự nào. Trên thực tế, cái gọi Quốc gia Việt Nam chỉ là một sự nguỵ trang cho nền cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam.

Chính Tướng Georges Revers, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp, được phái sang Việt Nam để nghiên cứu tình hình trong tháng 5 và tháng 6-1949 đã viết: “Hồ Chí Minh đã có khả năng chống cự lại với sự can thiệp của Pháp lâu đến như thế, chính là vì nhà lãnh đạo Việt Minh đã biết tập hợp chung quanh mình một nhóm những người thực sự có năng lực… Ngược lại, Bảo Đại chỉ có một chính phủ gồm độ 20 đại biểu của toàn các đảng phái ma, trong số đó đảng mạnh nhất cũng khó mà đếm được 25 đảng viên”. Còn nhà nghiên cứu chiến lược Mỹ Archimedes L.A. Patti thì nhận xét: “Tất nhiên là họ (Quốc gia Việt Nam) đã lầm. Không bao giờ Pháp cho Việt Nam độc lập để mất Đông Dương.”

Bảo Đại đã từ địa vị một cố ván tối cao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một công dân của một nước Việt Nam độc lập sau năm 1945 trở thành quốc trưởng bù nhìn của một “quốc gia hư cấu” như vậy đấy.

Và kết cục của của cái “nhà nước hư cấu” được gọi là Quốc gia Việt Nam ấy đã đến khi Hiệp định đình chiến Genève 1954 được ký kết chỉ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp. Sau khi thực dân Pháp rút khỏi Đông Dương thì cái “Quốc gia Việt Nam” ấy cũng sụp đổ. Đế quốc Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về làm cái gọi là thủ tướng rồi thay Bảo Đại là quốc trưởng. Trên cơ sở cái “thây ma chính trị” được gọi là Quốc gia Việt Nam ấy, Mỹ đã dựng lên cái gọi là Việt Nam Cộng hòa. Và bây giờ, chính người Mỹ và các thế lực thù địch chống Việt Nam lại đang chơi trò “xác ướp Ai Cập”, mưu mô phục dựng lại cái “thây ma chính trị” Việt Nam Cộng hòa đã bị ném vào sọt rác lịch sử từ hơn 40 năm trước. Nhưng điều đáng phẫn nộ hơn cả là một số nhà sử học Việt Nam hiện nay không biết do vô tình hay cố ý đã lại mắc vào cái bẫy khách quan giả hiệu, trung lập giả hiệu và đa chiều giả hiệu của chúng để tiếp tay cho việc đó.


Tâm Minh Nguyễn
(Nguồn: Diễn Đàn Dân Chủ, ngày 23-8-2017)

Thứ Tư, 6 tháng 9, 2017

TỨ ĐẠI ĐẦN

 
Bọn "nhà sử học" đần

Nghe đâu có một dúm mấy thằng tự phong – hoặc được phong bởi phe nhóm Sử Đần, thân nhân Sử Đần, hoặc bọn đần đột nhập vào trong Đảng hay bọn đần đột nhập truyền thông – “nhà sử học” làm ô danh “nhà sử học”, không rõ bằng cấp thạc sĩ tiến sĩ bọn chúng có phải được cấp bởi các “viện hàn lâm khoa học” Việt Nam (tức cái máy sinh sản vô tính rặn đẻ ra nhiều ngàn thằng tiến sĩ mỗi năm chất lượng như rác vừa bị soi bởi đài VTV) hay không mà chúng chỉ chuyên cần tỉ mỉ làm 9 điều vớ vẩn chỉ để chứng minh bản thân chúng cũng đang tồn tại đầy vinh diệu như ai, gồm

(a) có lần đòi quốc hội phải có luật đĩ – may mà nhờ Nghị sĩ Hoàng Hữu Phước chưởi cho một trận ngay tại Nghị Trường nên mới “yên ắng” từ 2012 đến nay;

(b) luôn vác cuốc đập tanh banh đền đài miếu mạo cao trọng của Sử để biến nó thành môn bị khinh thường không ai thèm học;

(c) luôn hiên ngang thề nguyền quyết không bao giờ đẻ ra các công trình biên khảo nào về Thế Giới Sử/Đông Dương Sử/Cam-Pu-Chia Sử thậm chí về Mỹ Sử bằng tiếng Việt dù đó là công việc dành cho đẳng cấp đầu một “nhà sử học” thực thụ theo chất và chuẩn Mỹ Âu tức phải nghiên cứu tất tần tật;

(d) luôn hiên ngang thề nguyền quyết không bao giờ viết các công trình biên khảo nào về Việt Sử bằng tiếng Anh hay ngoại ngữ khác để thế giới đừng hòng biết gì đúng về Việt Nam;

(e) luôn hiên ngang ký tên vào các kiến nghị tập thể về dân chủ nhân quyền để tự động được danh “nhân sĩ”;

(f) luôn hiên ngang tru tréo đòi sự công bằng cho các triều vua và quan lại Nhà Nguyễn thối tha do bất tài vô dụng không biết phải làm gì với Sử;

(g) luôn hiên ngang tréo tru về “Hải Chiến Hoàng Sa” thối hoắc;

(h) luôn hiên ngang sủa nhặng về Việt Nam Cộng Hòa thối nát; và

(i) luôn hiên ngang nhặng sủa đòi loại trừ chữ Ngụy thối rùm.

Bài viết này, do đó, nhằm dạy cho bọn “nhà sử học” mất dạy chưa từng học xong đại học đúng nghĩa về môn Sử biết bốn cái đại đần của chúng về lĩnh vực Sử như sau:

A- Đệ Nhất Đại Đần: Công Nhận Việt Nam Cộng Hòa

Bọn soạn sách Sử – không phải các nhà viết Sử – hân hoan hả hê hoan ca hoan lạc ồn ào đú đởn về cái gọi là “công nhận Việt Nam Cộng Hòa” như một thành tích ghê gớm tuyệt đỉnh hợp ca của chúng đối với quyển sách sử do chúng biên soạn từ tiền thuế của dân.

Bọn chúng – và những tờ báo nào hoan hỷ y như chúng – đã cực kỳ đần độn do không biết 6 sự thật lịch sử cùng sự thật thực tế mang tính công pháp toàn cầu rằng:

1) Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa đều không hề là thành viên Liên Hợp Quốc.

Cả hai đều không được nhận vào làm thành viên Liên Hợp Quốc, trong khi quy chế thành viên Liên Hợp Quốc lại được chấp nhận áp dụng cho Đông Đức và Tây Đức (18-9-1973) cũng như Hàn Quốc và Triều Tiên (17-9-1991). Lý do đơn giản là: bốn “nước” này được các siêu cường nhất trí phân chia, trong khi Việt Nam được “quốc tế” ấn định ngay từ đầu là phải tổ chức tổng tuyển cử thống nhất hai miền thành một quốc gia duy nhất, mà sự phá hoại tiến trình đó của bọn chống Cộng đã dẫn đến việc Liên Xô dùng quyền phủ quyết để chặn ngăn các nổ lực xằng bậy của Mỹ và đồng minh trong cố gắng trong vô vọng nhằm hợp thức hóa vị thế của Việt Nam Cộng Hòa tại Liên Hợp Quốc để chia cắt vĩnh viễn Việt Nam thành hai “quốc gia”. Cũng vì vậy mà chỉ khi Việt Nam thống nhất thì Liên Hợp Quốc mới kết nạp Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam ngày 20-9-1977 theo Nghị Quyết số 413 ngày 20-7-1977 nhất trí 100% của Hội Đồng Bảo An, dù rằng trước đó trong cơn bấn loạn hốt hoảng mang tên Việt Nam Giải Phóng, Hội Đồng Bảo An đã run lập cập công bố Nghị Quyết ngày 08-8-1975 ghi rằng “chấp thuận bản dự thảo của 9 nước gồm Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết Byelorussia, Trung Quốc, Guyana, Iraq, Mauritania, Thụy Điển, Liên Xô, Cộng Hòa Thống Nhất Cameroon và Cộng Hòa Thống Nhất Tanzania, nay kiến nghị Đại Hội Đồng xem xét cho …. Việt Nam Cộng Hòa làm thành viên Liên Hợp Quốc” quên phéng chuyện lẽ ra đã phải gạch bỏ cụm từ Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi các bộ óc siêu cường Âu Mỹ (Bởi vì VNCH đã bị xóa sổ trước đó 4 tháng rồi):
 
Như vậy tất cả các chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa đều tự động trở thành tài sản thống nhất và của duy chỉ Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam một cách không bao giờ có thể tranh cãi được về mặt pháp lý ngay khi Việt Nam thống nhất.

Như vậy, tất cả các hải đảo do Việt Nam Cộng Hòa “quản lý” và “tuyên bố chủ quyền” đều tự động trở thành tài sản thống nhất và của duy chỉ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam một cách không bao giờ có thể tranh cãi được về mặt pháp lý ngay khi Việt Nam thống nhất.

Như vậy, việc bọn Sử đần nêu lên rằng nhất thiết phải công nhận Việt Nam Cộng Hòa để có cơ sở pháp lý đòi lại Hoàng Sa chỉ chứng tỏ bọn Sử Đần thực sự đần và chỉ là một đám trẻ con chưa hề cắp sách đến trường học môn Sử.

Tất nhiên, việc không là thành viên Liên Hợp Quốc cũng chẳng là điều quan trọng, vì không những hai bên có riêng cho mình những sự “công nhận” của các quốc gia khác về ngoại giao và như một thực thể ngoại giao, mà còn vì Liên Hợp Quốc cũng chỉ là một tổ chức vô duyên – chẳng hạn dù Đài Loan là một trong những thành viên chính thức đầu tiên từ năm 1945 và là một trong số 5 ủy viên thường trực vĩnh viễn của Hội Đồng Bảo An, Liên Hợp Quốc vẫn ra Nghị Quyết số 2758 năm 1971 tống cổ Đài Loan để lấy ghế thành viên Liên Hợp Quốc cùng ghế ủy viên thường trực Hội Đồng Bảo An dâng tặng Trung Quốc, chứ không như trường hợp Đông Đức-Tây Đức và Triều Tiên-Hàn Quốc. Đài Loan bị Liên Hợp Quốc từ chối xem như “quốc gia” mà chỉ là một tỉnh lỵ thuộc Trung Quốc; tuy nhiên, Mỹ và 18 nước thành viên cùng Vatican và Việt Nam Cộng Hòa là 21 thực thể “chính thức công nhận” Đài Loan để có các quan hệ ngoại giao đồng minh dù không ai dám gọi Đài Loan là “quốc gia”, còn Đài Loan thì duy trì quan hệ ngoại giao không chính thức với gần 100 quốc gia khác.

Tương tự, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được các nước Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên, Cuba, và các nước Đông Âu cùng Trung Á “công nhận” (như Hung Gia Lợi, Ba Lan, Tiệp Khắc, Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, Nam Tư, v.v.). Ngoài ra, còn có một số các nước Tây Âu như Thụy Điển cũng đã với công tâm và lòng nể trọng Hồ Chí Minh công nhận quan hệ ngoại giao đầy đủ với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa từ những năm 1960. Richard Sackett Thompson, quan chức Mỹ tại Hòa Đàm Paris 1972-1974, khi trả lời phỏng vấn đã nói rằng: “Trận ném bom Giáng Sinh 1972 đã có quả rơi nhầm Đại Sứ Quán Pháp ở Hà Nội khiến bạn gái của Đại Sứ tử vong, thật là một việc thất lễ (killed the ambassador’s mistress, which is very unkind indeed). Đây là lần đầu tiên B52 bị bắn hạ. Không rõ có mấy chiếc bị rơi. Nhưng bên tình báo cho biết phía địch hết trọi hỏa tiễn rồi nên chúng sẽ tuyệt vọng trước các trận ném bom của chúng ta” với ngụ ý B52 bị rơi tại vì cộng sản đem hết hỏa tiển ra bắn tua tủa như mưa nên không trúng ruồi sao được, mà có trúng thì phải trả giá đắt cực kỳ vì phải xài sạch bách cả kho vũ khí.

Còn Việt Nam Cộng Hòa dù không được “toàn thế giới công nhận” vẫn trở thành thành viên của Ngân Hàng Phát Triển Châu Á, Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Cảnh Sát Quốc Tế, Hội Hồng Thập Tự Và Trăng Lưỡi Liềm Đỏ Quốc Tế, và vài tổ chức của Liên Hợp Quốc như UNESCO và Liên Minh Bưu Chính, v.v., vì những tham gia này chẳng dính dáng gì đến “công nhận” hay “không công nhận” cả.

Như vậy, chỉ có bọn Sử Đần mới hô hào hoan hỷ đòi Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam phải “công nhận” Việt Nam Cộng Hòa trong sách về Sử, mặc cho sự thật là Việt Nam Cộng Hòa khi còn tồn tại đã thường xuyên ngay từ đầu hô hào “Bắc Tiến” tiêu diệt Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tàn sát thường dân và tu sĩ Phật Giáo “thân Cộng”, và năn nỉ Mỹ hãy sử dụng bom nguyên tử biến Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thành Hiroshima và Nagasaki để không những cộng sản bị tiêu diệt mà còn để thế gian năm 2017 không thể có sự xuất hiện của bọn Sử Đần do đã bị phóng xạ hủy diệt  từ lâu.

2) Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam không bao giờ có thể “công nhận” Việt Nam Cộng Hòa đơn giản vì “công nhận” là một hành vi ngoại giao giữa hai “quốc gia” hoặc hữu hảo hoặc với dụng ý khác, mà Việt Nam Cộng Hòa chỉ là một thực thể sinh sau đẻ muộn tồn tại chỉ có 20 năm từ 1955 đến 1975, đã bị tiêu diệt, có còn đâu mà Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam thực hiện được trò tuyên bố “công nhận”. Chỉ có bọn Sử Đần mới mở miệng nói điêu không sợ các nhà hàn lâm ngoại giao và sử gia thế giới khinh bỉ khinh miệt khinh thường khinh khi khinh rẻ và khinh khỉnh.

3) Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam không bao giờ có thể “công nhận” Việt Nam Cộng Hòa đơn giản vì tất cả các sử gia trên thế giới sẽ cho đó là hành vi quái đản không bao giờ tồn tại hoặc không bao giờ có tiền lệ ở thế giới văn minh.

4) Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam không bao giờ có thể “công nhận” Việt Nam Cộng Hòa đơn giản vì “công nhận” là một cái bẫy để ngay khi có nhân vật lãnh đạo cấp cao nào đó của Nhà nước mất cảnh giác tuyên bố “công nhận” Việt Nam Cộng Hòa thì bọn phản động hải ngoại lập tức hình thành một thực thể đấu tranh đòi Liên Hợp Quốc bắt Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam phải “trả lại” đất đai tài sản toàn Miền Nam cho chúng trở về “lập quốc”, tiến hành hành quyết bằng máy chém của Ngô Đình Diệm các quan chức công chức chế độ cộng sản và xua đuổi nam phụ lão ấu công dân Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thành phía Nam ra đường phố để thu hồi tất cả các nhà cửa đất đai trước đó thuộc quyền sở hữu các cư dân Việt Nam Cộng Hòa đã đào thoát bỏ lại. Há miệng mắc quai là cái mà bọn “nhà sử học” đần mong Đảng Cộng Sản Việt Nam đủ ngu để phạm phải.

5) Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam không bao giờ có thể “công nhận” Việt Nam Cộng Hòa đơn giản vì “công nhận” chẳng dính dáng gì đến việc khôi hài “đòi lại Hoàng Sa” mà bọn Sử Đần đang sủa. Trung Quốc đã “công nhận” Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam từ khuya, và còn khuya Trung Quốc mới giao trả Hoàng Sa, Trường Sa, cùng các vùng đất mà chúng chiếm đóng trên đường tháo chạy sau Chiến Tranh Biên Giới 1979. Đất của Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam mà nó còn chiếm, không bao giờ trả lại cho chủ nhân, sá gì trò hề “công nhận” Việt Nam Cộng Hòa để có tư cách làm chủ mà đòi lại Hoàng Sa? Trung Quốc sẽ đơn giản nói rằng “Nị công nhận Việt Nam Cộng Hòa, vậy thì hãy để nó tới đây thương thảo với ngộ, hoặc nị chừng nào có công văn ủy quyền của nó thì hãy cho ngộ biết nhe. Chào tạm biệt bạn hiền. Ngộ còn lo đánh thằng Ấn Độ kiếm thêm vài miếng đất đây!” Chưa kể, trước 1955 thì Việt Nam Cộng Hòa không tồn tại, vậy phải chăng Hoàng Sa nói riêng và toàn bộ lãnh thổ Việt Nam thuộc chủ quyền của Pháp nên giờ đây chỉ có Pháp mới có quyền đòi lại Hoàng Sa vì Pháp chưa hề ký giấy giao Hoàng Sa cho Việt Nam Cộng Hòa còn Việt Nam Cộng Hòa chưa ký giấy giao lại cho Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam?

6) Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam không bao giờ có thể “công nhận” Việt Nam Cộng Hòa đơn giản vì sao lại phải “công nhận” khi chân lý tự ngàn xưa đến nay luôn là: toàn bộ tài sản – kể cả “nợ” và “có” – của kẻ thua sẽ tự động thuộc về bên thắng trận. Toàn bộ khí tài quân sự và quân trang quân dụng kể cả kho tàng ngân khố của Việt Nam Cộng Hòa, các tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa ở hải ngoại, v.v, đều tự động thuộc về chủ quyền của Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam mà không cần bất kỳ sự “công nhận” nào cả, và thậm chí dù không “công nhận” Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam thì tất cả các nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam Cộng Hòa cũng tự động bỏ ngân sách ra mà bảo quản, giữ gìn tất cả các tài sản của Việt Nam Cộng Hòa ở hải ngoại cho đến ngày nào đó của tương lai khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam thì trao hoàn lại đầy đủ 100% cho Cộng-Hòa Xã-Hội Chủ-Nghĩa Việt-Nam trong tình trạng bảo quản tốt nhất có thể được. Không bất kỳ quan chức nào của Việt Nam Cộng Hòa bị đánh đuổi chạy sang các nước đồng minh lại được các nước đồng minh ấy cho vào sống tại các đại sứ quán của Việt Nam Cộng Hòa hoặc đem bán các tòa nhà đó để bảo đảm Cộng Sản đừng hòng hưởng được gì. Chỉ có bọn Sử Đần mới không biết về khoản này.

B- Đệ Nhị Đại Đần: Ngụy Quân – Ngụy Quyền

Ngoài nội dung ngữ nghĩa mang tính lịch sử của “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” mà tác giả bài viết này đã nêu kỹ trong bài đăng tuần trước trên blog này, bọn Sử đần nhất thiết phải được dạy về các chi tiết lịch sử và thực tế sau:

1) Tất cả các guồng máy quản trị một quốc gia, một lãnh thổ, một địa phương đều được dùng chung bởi một từ duy nhất trong tiếng Anh là “government” mà tiếng Việt gọi là “chính phủ”.

2) Như đã bao lần được nêu trong blog này chẳng hạn đối với các từ ngữ như “dân chủ” chẳng hạn, thì luôn có sự bất tương thích giữa tiếng Việt và tiếng Anh, khiến “dân chủ” bị người Việt hiểu nhầm thành “dân làm chủ” dẫn đến việc vô tư lạm dụng để làm nhặng lên chống Cộng, trong khi tiếng Anh của nó là “democracy” chỉ nêu lên nội dung duy nhất là thể chế mà nơi đó người dân bỏ phiếu bầu nên chính phủ tùy theo quy định của Hiến Pháp chứ không phải cái thể chế trên trời rơi xuống một đấng quân vương làm vua trọn kiếp rồi truyền ngôi cho con cái. Ở đây, chữ “chính phủ” trong tiếng Việt lại bị vướng chữ “chính” mà người Việt hiểu nhầm rằng mang nghĩa “danh chính ngôn thuận” trong khi từ ngữ tiếng Anh của nó là “government” chỉ mang nghĩa tập thể điều hành cai trị đất nước/lãnh thổ/địa phương chứ chẳng có chính chính phụ phụ chính chính tà tà chính chính ngụy ngụy gì cả.

Do hiểu theo kiểu Việt, những con người đoan chính nghĩa khí tuân thủ luật pháp quốc tế và các thỏa thuận quốc tế ở Miền Bắc đã giận dữ trước sự tráo trở của “phe Miền Nam” phá hoại Tổng Tuyển Cử tự lập nên “government” ở Miền Nam, nên không cam chịu chữ “chính” cao trọng của Hán Việt lại được dùng gọi bọn tay sai phá hoại nên thay vì chọn chữ “tà” cho đối chọi với “chính”, đã tự chế ra từ “ngụy quyền” để thay cho “chính quyền”,  do chữ “tà” trong “tà quyền” có hơi hướm tôn giáo, còn quân đội của “ngụy quyền” ấy là “ngụy quân” vì quân đội luôn cao quý bảo vệ sự toàn vẹn thống nhất đất nước chứ ai lại làm tay sai cho Mỹ chia cắt đất nước bao giờ.

Cái nghĩa khí ấy khi cặp chung với cái hạn chế muôn thủa về tương quan tiếng Việt với tiếng nước ngoài  đã khiến hình thành nên các từ “ngụy quân” và “ngụy quyền”. Thế nhưng, về mặt ngôn ngữ toàn cầu thì dù là chính quyền, phụ quyền, hay ngụy quyền hoặc… giả trá quyền hay ba xạo quyền thì chung quy vẫn chỉ có một từ tiếng Anh duy nhất là government. Về mặt ngôn ngữ hàn lâm, “chính quyền” là từ ngữ chính thức chính quy tức “formal”, còn “ngụy quyền” là từ ngữ không chính thức chính quy tức “informal” hoặc “colloquial” hoặc tiếng lóng tức “slang”.

Như vậy, do tiếng lóng không bao giờ được xem như thích hợp trong ngôn ngữ hàn lâm, Việt Nam có quyền sử dụng “ngụy quyền” tùy thích ở nội bộ Việt Nam vì đó là tiếng Việt đặc thù được chế tạo ra trong thời gian chiến tranh để phân định chính với tà. Còn khi dịch “ngụy quyền” ra tiếng Anh thì vẫn phải dùng chữ “government”. Từ đó, việc sử dụng từ “chính phủ” để gọi giới cầm quyền Việt Nam Cộng Hòa cũng là lẽ thường tình do chữ “chính” trong “chính quyền” đâu có nghĩa là chính đạo chính thức chính quy chính nghĩa gì cả.

Tóm lại, việc sách dạy Sử bằng tiếng Việt nên dùng chữ “chính quyền” để nếu chẳng may quyển sách ấy bất ngờ có giá trị toàn cầu thì các học giả nước ngoài khi tự dịch từ tiếng Việt ra tiếng nước họ thì họ sẽ biết chữ đó là chữ “government”, chứ nếu ghi là “ngụy quyền” thì họ hoàn toàn không sao hiểu nổi. Đối với tiếng Anh, chỉ có các cụm từ chính quyền dân cử, chính quyền dân sự, chính quyền quân sự, và chính quyền bù nhìn, chứ thế giới hàn lâm không bao giờ có khái niệm chính quyền chính và chính quyền tà (tức chính quyền ngụy, gọi tắt là ngụy quyền).

Tóm thêm lần nữa, việc dùng “chính quyền” để gọi giới cầm quyền của chế độ Sài Gòn là chuyện nhỏ, chuyện bình thường, chuyện chuyên nghiệp, chuyện đương nhiên, chuyện ngôn ngữ (do thiếu dấu gạch nối để biết chính-quyền tức “government” hoàn toàn khác với chính quyền tức “main power”) chứ làm quái gì có liên quan đến “công nhận” hay “không công nhận” mà tru tréo rỡ mừng như vừa gặp khúc xương trong tô bánh canh giò heo trên nắp cống Kênh Nhiêu Lộc.

C- Đệ Tam Đại Đần: Làm Chính Trị

Cái đần của bọn “nhà sử học đần” là không hiểu sự khác biệt của sử gia chính trị và sử gia làm chính trị.

Sử gia chính trị là những sử gia tri thức uyên bác chỉ có ở Âu Mỹ, chuyên nghiên cứu thâm sâu để có các công trình biên khảo xuất chúng về lịch sử chính trị các nước các khu vực các thời kỳ từ trung cổ đến cận đại của nước này nước nọ.

Tại sao cận đại mà không hiện đại? Đơn giản vì những gì của hiện đại chỉ có giá trị ghi vào sử sách sau một thời gian tối thiểu 50 năm hoặc 100 năm. Soạn sách mà la lối về Việt Nam Cộng Hòa là hoàn toàn sai vì chưa được 50 năm hay 100 năm hạn định đó, chưa kể 50 năm hay 100 năm không phải là số năm của số học mà là 50 năm hay 100 năm nghiên cứu thu thập sử liệu và tài liệu cũng như là 50 năm hoặc 100 năm có sự ra đời của vô số công trình biên khảo, phản biện, bút chiến, khẩu chiến, để chờ thời điểm đến là đem ra tranh luận lần cuối để thống nhất ghi vào sử sách hoặc điều chỉnh sử sách. Từ Giải Phóng Miền Nam đến nay đã gần 50 năm, song đã có những pho sách nghiên cứu nào về Việt Nam Cộng Hòa đã ra đời mà bọn Sử đần lại tự tung tự tác ghi vào quyển sách mới in về môn Sử vậy?

Tại sao nước này nước nọ mà không là nước mình? Đơn giản vì “nước mình” là công việc của giáo viên dạy Việt Sử, không cần nghiên cứu quái gì cả mà phải dựa 100% vào sách giáo khoa vốn dựa theo quyển lịch sử chính thức chính thống của các tiền nhân đã ra người thiên cổ; còn công việc của sử gia thứ thiệt là hoặc nghiên cứu các vấn đề chưa rõ để góp phần thắp thêm ngọn nến soi rọi lịch sử cho hậu thế quyết định chứ dứt khoát không có quyền đòi sửa chữa sử liệu, hoặc nghiên cứu các vấn đề sử tương tự hay dị biệt của các nền văn minh khác để làm giàu thêm cho kho tàng lịch sủ vì Thế Giới Sử luôn là phần quan trọng của bộ môn lịch sử.

Tu sĩ mà “làm chính trị” là chuyện đần độn.

Nhà sử học mà làm chính trị là chuyện độn đần.

Tu sĩ vẫn có thể “làm chính trị”, song không bao giờ được phép bảo là Kinh Phật hay Kinh Thánh dạy là phải chống chế độ cộng sản, chống chính phủ, chống…Formosa. Đó là lý do các giám mục và tổng giám mục Đức Quốc Xã “làm chính trị” ủng hộ tàn sát Dân Do Thái mà không bị trừng trị vì đơn giản các giám mục/tổng giám mục ấy nào có chống chế độ Quốc Xã, chống chính phủ Quốc Xã, chống công ty Ý Mussolini mần ăn với Quốc Xã, mà trái lại đã tỏ lòng yêu nước yêu chế độ yêu lãnh tụ cực kỳ cực điểm và cực đỉnh. Việt Nam là quốc gia duy nhất của nhân loại dám để yên cho bọn tu sĩ chống đối chế độ, chống đối Hiến Pháp, chống đối chính phủ; trong khi thế giới văn minh chỉ cho phép tu sĩ chống một cá nhân bất kỳ của chính phủ. Linh mục Mỹ chỉ biểu tình chống đích danh Donald Trump đối với  đích danh một đạo luật cụ thể như quyền phá thai chẳng hạn vì có dính dáng đến giáo huấn của tôn giáo, chứ chẳng có thằng tu sĩ ngu nào dám chống Hiến Pháp Hoa Kỳ và Chính Phủ Hoa Kỳ để nhận lấy các đòn trừng trị khủng khiếp của FBI nơi chốn ngục tù.

Nhà sử học có thể “làm chính trị” nhưng không bao giờ được phép bảo là chính phủ phải …“công nhận” thể chế này quốc gia nọ cũng như bỏ chữ này dùng chữ kia để “lấy lại Hoàng Sa” với lý do Sử nó dạy thế rành rành trong sách sử. Theo chuẩn chất của Âu Mỹ, khi “làm chính trị” thì bất kỳ ai kể cả “nhà sử học” đều phải bỏ nghề, bỏ luôn tòa soạn tạp chí gì đó mà mình làm chủ, bỏ luôn các hợp đồng soạn sách sử để không mang tiếng dựa hơi chính trị kiếm thu nhập cá nhân, đồng thời để không phạm phải điều tối kỵ rằng lời phát biểu về chính trị của ta một nhà sử học đương nhiên phải là lịch sử quốc gia.

Dùng kinh kệ để làm cầu thang chính trị gây loạn quốc gia là bọn tu sĩ đần độn dám khinh nhờn luật pháp quốc gia.

Dùng chức năng biên soạn sách sử để làm cầu thang chính trị gây loạn quốc gia là bọn “nhà sử học” đần độn dám khinh lờn luật pháp quốc gia.

Các thiền sư đã vung đao chém bay biết bao đầu của giặc Tàu và hết lòng phò tá chế độ nước nhà giúp Việt Nam có những triều đại hoàng kim. Các linh mục đã hỗ trợ Ngô Đinh Diệm chém rơi biết bao đầu của “bọn thân Cộng” mà tuyệt đại đa số không là tín đồ Đạo Chúa, nhưng không để hết lòng phò tá chế độ mà để thực thi mệnh lệnh của vị Hồng Y tại Hoa Kỳ nên Ngô Đình Diệm bị giết cũng không sao và Việt Nam Cộng Hòa bị mất về tay Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng không sao tuốt.

Thế nên, các bậc chân tu đạo hạnh và các sử gia thực thụ trong lịch sử quốc gia không có bất kỳ ai “làm chính trị” nhờ vậy mà thiên hạ còn có người lương thiện và kho tàng văn hóa nước nhà còn có các tác phẩm kinh kệ hay lịch sử vĩ đại cho hậu thế.

D- Đệ Tứ Đại Đần: Rắn Đầu Biếng Học

Và cuối cùng, song lại là điều quan trọng nhất là bọn “nhà sử học đần” đã (a) không tìm đọc tất cả các lời giáo huấn của tác giả bài viết này về Sử và tư cách “nhà sử học” như có liệt kê ở phần tham khảo dưới đây, và (b) không biết rằng tất cả các vấn đề về Việt Sử và Thế Giới Sử nhất thiết phải tham khảo ý kiến của và trình các bản thảo sách về môn Sử cho tác giả bài viết này hiệu đính trước khi xuất bản.



Tác giả: Hoàng Hữu Phước (Nguyên Đại biểu Quốc hội khóa 13)

Ngày: 01 - 9 - 2017

Thứ Bảy, 2 tháng 9, 2017

THÊM THÀNH VIÊN CẦM ĐẦU HỘI ANH EM DÂN CHỦ Ở THÁI BÌNH BỊ BẮT

(Đối tượng Nguyễn Văn Túc)
Ngày 01/9/2017, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã ra quyết định khởi tố bị can, thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Văn Túc, sinh năm 1964, đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Cổ Dũng 1, xã Đông La, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân quy định tại Điều 79, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Xem link http://congan.thaibinh.gov.vn/Tin-Tuc/Tin_ANTT/4227_Co-quan-An-ninh-dieu-tra-Cong-an-tinh-Thai-Binh-khoi-to-bi-can-pham-toi-hoat-dong-nham-lat-do-chinh-quyen-nhan-dan

Nguyễn Văn Túc từng bị Tòa án Việt Nam kết tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” vì tham gia thực hiện cả hai vụ treo khẩu hiệu, rải truyền đơn có nội dung chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam theo đặt hàng của Việt tân dưới vai trò tổ chức của Nguyễn Xuân Nghĩa năm 2008. Ngoài ra, tên này còn làm, tàng trữ và tán phát nhiều tài liệu có nội dung chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam.

Túc từng được Nguyễn Xuân Nghĩa, Nguyễn Văn Đài dẫn dắt tham gia Khối 8406 và nhiều hoạt động do Việt tân chỉ đạo, tổ chức như : tham gia nhiều hoạt động biểu tình trước ĐSQ Trung Quốc năm 2007. Tháng 4/2008 y tiến hành vận động một số thanh niên ở Hải Phòng giả làm sinh viên mặc áo phông in chữ “tẩy chay Olympic Bắc Kinh – Trung Quốc”, yêu cầu đền bù cho ngư dân Việt Nam bị sát hại, biểu tình tại khu vực chợ Đồng Xuân – Hà Nội. Đầu tháng 8/2008, Nguyễn Văn Túc đã được xác định câu kết với một số người có cùng quan điểm chống đối để tổ chức treo khẩu hiệu qua đó chụp ảnh, viết bài đưa lên mạng Internet tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam và quảng bá cho hoạt động của cá nhân, đồng thời có cớ tìm kiếm tài trợ của nước ngoài. Ban đầu chúng dự định thực hiện tại Thái Bình. Nội dung khẩu hiệu “phường Tiền Phong kiên quyết đấu tranh tiêu diệt bọn tham nhũng. Yêu cầu Chính phủ kiên quyết bảo vệ giang sơn tổ quốc. Yêu cầu ĐCSVN chấp nhận đa nguyên, đa đảng”, đã được Túc treo tại cầu vượt Lạch Tray, quận, Ngô Quyền, TP Hải Phòng vào sáng ngày 16/8/2008.

Ngày 07/9/2008 Túc tiếp tục cùng những người trong nhóm tổ chức treo truyền đơn, khẩu hiệu với nội dung: “Khối 8406. Lạm phát, dân nghèo khổ là do chính quyền cộng sản; mất dân chủ, tự do, nhân quyền là do chính quyền cộng sản: yêu cầu đa nguyên, đa đảng” trên cầu vượt Lai Cách - Hải Dương.

Ngày 11/9/2012 Nguyễn Văn Túc mãn hạn tù và trở về quê hương sinh sống, và phải chấp hành 3 năm quản thúc tại địa phương. Y tiếp tục được Nguyễn Văn Đài và số thủ lĩnh HAEDC ở HN dẫn dắt vào HAEDC, trở thành thủ lĩnh tổ chức tay sai Việt tân ở Thái Bình
Như vậy, cùng với Nguyễn Văn Đài, tiếp gót 5 thủ lĩnh HAEDC ở các vùng miền đất nước bị khởi tố theo Điều 79 BLHS, dự đoán sau Nguyễn Văn Túc, danh sách số thủ lĩnh, cốt cán HAEDC chưa dừng lại. Đây là kết cục của những kẻ tay sai cho tổ chức khủng bố Việt tân phá hoại sự an bình của đất nước.


Nguồn: Loa Phường