Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

TIẾP BƯỚC THEO ÁNH SÁNG HỒ CHÍ MINH (Nhân TT Nguyễn Xuân Phúc thăm Mỹ)

Lịch sử của mối quan hệ Việt-Mỹ hôm nay đang tiếp bước theo tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, dù không được trải thảm mà đã phải bước qua những bước gập gềnh, chông gai, băng qua cả lửa và máu. Năm 1919, khi lãnh đạo của các nước Đồng Minh thắng trận trong Thế chiến thứ Nhất họp tại Lâu đài Versailles, Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã đưa ra chủ thuyết về quyền tự quyết cho mọi dân tộc, Nguyễn Tất Thành (Bác Hồ) đã cùng Phan Châu Trinh,  Phan Văn Trường trong Hội những người An Nam yêu nước (Association des Patriotes Annamites) đưa ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam (Revendications du peuple annamite) với mục đích chính là “để người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm pháp lí như người châu Âu”, kêu gọi lãnh đạo các nước Đồng Minh hãy thực thi những lý tưởng Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson nêu ra.

Tiếc là các lãnh đạo của các cường quốc như Pháp, Mỹ đã không đủ thông thái để nhận ra một thứ ánh sáng văn hóa kỳ diệu tỏa ra từ một thanh niên bình dị ở một nước nhỏ đã mất quyền làm chủ, bị Pháp đô hộ; họ tiếp tục rồi thay nhau thực thi chính sách thực dân, muốn áp đặt ý mình bằng sức mạnh quân sự lên đất nước nhỏ bé đó, để rồi các cuộc chiến đẫm máu đã nổ ra và chính họ là người chịu thất bại.
                                                ***
Nước Mỹ từng là Đế quốc đứng đầu thế giới chống cộng nhưng từ ngày 6 đến 10/7/2015, đã mời TBT ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng sang thăm Mỹ. Ý thức hệ của VN đã được Mỹ tôn trọng như tôn trọng tự do tín ngưỡng. Không như ngày nào, 1954, Tổng thống thống Mỹ Dwight D. Eisenhower đã khai sinh ra “Học thuyết đô-mi-nô” đã đẩy Mỹ vào và bị sa lầy tại cuộc chiến cay đắng chống Việt Nam làm gần 60000 người Mỹ thiệt mạng và làm chết gần 3 triệu người Việt Nam ở cả hai miền Nam Bắc. Nhiều sử gia của Mỹ đã cho rằng cuộc chiến đó có thể đã tránh được nếu phía Mỹ hiểu được lãnh tụ Hồ Chí Minh của Việt Cộng, hiểu được Hồ Chí Minh không phải là một người Cộng Sản với những quan niệm thô kệch và hạn hẹp mà Người, sao bao năm lăn lộn trên khắp thế giới, tâm trí Người đã hấp thụ tất cả những gì tinh túy nhất của tất cả những tư tưởng và văn hóa của loài người.         
                                                   ***
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Việt Minh đã cứu những phi cơ Mỹ bị quân đội Thiên Hoàng Nhật Bản bắn rơi. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã đích thân đưa trung úy phi công Mỹ Shaw vượt núi rừng Việt Bắc đến Côn Minh, trao trả cho người Mỹ, gặp tướng Claire L. Chennault, tỏ một cử chỉ thân thiện để đặt nền tảng đầu tiên cho mối quan hệ Việt - Mỹ. Đáp lại, phía Mỹ, tại Côn Minh, vào tháng 5, tháng 6 năm 1945, cũng đã lập ra Đội Nai (Deer Team) dưới sự chỉ đạo của Archimedes Patti, Phụ tá đặc trách Ðông Dương, nghiên cứu về Việt Minh, đội trưởng là Thiếu tá Allison Thomas. Prunier, một đội viên, đã hồi tưởng: “Trước khi Đội Nai nhảy dù xuống Tân Trào, không ai biết nhiệm vụ là gì”, “chỉ biết rằng ‘Mr. Hồ’ đang ở Tân Trào, và rằng chúng ta phải huấn luyện cho lực lượng của ông”. Sau này ông mới biết rằng nhiệm vụ chính là xây dựng mối quan hệ hợp tác để giải cứu các phi công của Đồng minh, đồng thời nhận báo cáo tình báo về phátxít Nhật và thời tiết cho Đồng minh.

Ngày 16/7/1945, toán biệt kích Con Nai bắt đầu nhảy dù xuống căn cứ Kim Luông. Đội trưởng, thiếu tá Alison Thomas kể với sử gia Lady Borton rằng khi họ vừa nhảy dù xuống giữa cánh đồng, còn đang lúng túng giữa những người dân địa phương và quân Việt Minh thì Hồ Chí Minh xuất hiện: “Ông nói với tôi bằng tiếng Anh rất giỏi. Sau ngày đó, ông gửi đến một bức thư viết tay cũng bằng tiếng Anh, dưới ký tên “Hồ”. Tôi nhớ mãi câu đầu tiên trong thư đó: “Xin gửi chai rượu để các bạn khai trương nhà mới”… Đời tôi đã gặp nhiều người rất thông minh nhưng tôi chưa từng gặp người nào thông minh như Hồ Chí Minh”. Còn theo Prunier, khi tiếp đất, ông thấy trong đám người vây quanh có một người thấp hơn, mặc áo vải lanh màu trắng, đi giày đen, đội mũ phớt cũng màu đen, được mọi người gọi là “anh Văn”, mãi sau đó nhóm biệt kích mới được biết tên của ông là Võ Nguyên Giáp. Nhóm được dẫn tới làng Tân Trào, được đón tiếp với một biểu ngữ bằng tiếng Anh có nội dung “Chào mừng các bạn Mỹ của chúng tôi”. Sau đó Prunier cho biết: “Nhiệm vụ của chúng tôi là giúp lực lượng du kích quấy rối quân Nhật. Chúng tôi đã cùng họ phá hủy đường ray tàu hỏa, các cơ sở viễn thông. Nhưng không đối đầu trực tiếp với quân Nhật vì chúng tôi không đủ hỏa lực”. Trong một lá thư viết trước khi Cách mạng tháng Tám thành công, Bác đã mong: “Tôi trông chờ ngày hạnh phúc được gặp ông (trung úy Fenn) và những người bạn Mỹ của chúng ta ở Đông Dương hay trên đất Mỹ” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, H., 2002, tr.550).

Đặc biệt, khi viết Tuyên ngôn độc lập, ngày 29 tháng 8, Bác Hồ đã đề nghị Archimedes Patti tới gặp Người. Bác thông báo ngày 2 tháng 9 sẽ trở thành ngày Độc Lập của Việt Nam, Người muốn tham khảo ý kiến của Patti về Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà lời mở đầu đã được trích từ Bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ:

"Tất cả mọi người được sinh ra đều có quyền bình đẳng; Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Sau khi yêu cầu phiên dịch đọc lại, Patti nói Bác đã đổi chỗ "quyền được sống" và "tự do". Bác đã trả lời: "Tại sao ư, dĩ nhiên rồi, không thể có tự do nếu không có cuộc sống, và không có hạnh phúc nào lại thiếu mất tự do".

Theo bà Lady Borton, nhà sử học, nhà văn Mỹ, Bác viết Tuyên ngôn Độc lập cẩn trọng “như một nhà báo, nhà văn chuyên nghiệp”. Bác đã gọi điện thoại cho Charles Fenn, nhân viên đầu tiên của phái bộ OSS được gặp Bác từ hồi tháng 3-1945, (OSS- Cơ quan tình báo chiến lược, tiền thân của CIA), nhờ kiểm tra lại nội dung Tuyên ngôn độc lập 1776 của Mỹ. Charles Fenn kể: “Tôi vào thư viện soát lại, rồi tôi gọi điện đọc cho Lucius nghe lời văn chính xác” (Lucius là bí danh của Hồ Chí Minh khi làm việc với OSS do Charles Fenn đặt).

Bà Lady Borton đã chỉ ra Bác đã trích dẫn Tuyên ngôn độc lập của Mỹ nhưng có sự thay đổi để thể hiện quan điểm riêng. Bản của Mỹ viết: “We hold these Truths to be self-evident, that all Men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty, and the pursuit of Happiness”, nghĩa là “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người (all men) sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Thời đó, từ “men” chỉ chỉ những người đàn ông Mỹ da trắng. Trong khi đó, Bác Hồ đã thay chữ “men” bằng “mọi người”, tức đã thể hiện tính bình đẳng và dân chủ một cách toàn diện: “Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng”.

Trong thư gửi Ngoại trưởng Mỹ James F. Byrnes đề ngày 1-11-1945, Bác vẫn thể hiện mong muốn mối quan hệ Việt-Mỹ phát triển: “Nhân danh Hội Văn hóa Việt Nam, tôi xin được bày tỏ nguyện vọng của Hội, được gửi một phái đoàn khoảng năm mươi thanh niên Việt Nam sang Mỹ… và tha thiết mong muốn tạo được mối quan hệ với nhân dân Mỹ là những người mà lập trường cao quý đối với những ý tưởng cao thượng về công lý và nhân bản quốc tế, và những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam” Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị Quốc gia, H., 2002, tr.80).

Trong lần được mời thăm Mỹ, tại cuộc gặp ngày 25/7/2013, Chủ tịch Trương Tấn Sang đã đưa cho Tổng thống Obama lá thư của Bác Hồ gởi TT Harry Truman năm 1946:

"Hà Nội 28/2/1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Hà Nội
Gửi đến ngài Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Washington DC
Thay mặt chính phủ và nhân dân Việt Nam, tôi … đưa ra lời yêu cầu tha thiết nhất tới Ngài và nhân dân Hoa Kỳ, hãy can thiệp khẩn cấp và hỗ trợ cho nền độc lập của chúng tôi, đồng thời giúp cho các cuộc đàm phán tôn trọng các nguyên tắc của Điều lệ Đại Tây Dương và San Francisco hơn.
Kính thư,
Hồ Chí Minh"

Đến tháng 1-1947, Bác vẫn muốn nối được quan hệ ngoại giao với Mỹ khi Người “hy vọng Mỹ gửi giúp chúng tôi vài chiếc” (máy bay). Và, cho đến tận tháng 5-1948, Hồ Chủ tịch vẫn cho rằng nước Mỹ “tất nhiên phải đồng tình với nước Việt Nam tranh đấu giành độc lập”. Mãi cho đến tháng 3-1949, khi Mỹ giúp cho Pháp vũ khí để đánh Việt Nam, lần đầu tiên Bác mới phản đối: “Chúng tôi tiếc rằng Mỹ đã tiếp tế khí giới cho Pháp giết hại người chúng tôi, phá phách xứ sở chúng tôi” (Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, H., 2002, tr.573).

Bắt đầu từ đây, mối quan hệ Việt – Mỹ đã bị cắt đứt hoàn toàn. Cuộc chiến tranh Việt Nam do Mỹ “đi theo vết xe đổ” của Pháp đã tiêu tốn cả núi tiền của và làm thiệt mạng gần 60.000 lính Mỹ.   
                                                 ***
Phải  66 năm sau (1949-1995). Tổng thống Mỹ Bill Clinton, ngày 15 tháng 7 năm 1995, đã tuyên bố thiết lập bang giao đầy đủ với Việt Nam. Sau này ông tâm sự: “Bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ là thời khắc tuyệt vời trong nhiệm kỳ của tôi”; “Việt Nam là đất nước có vị trí đặc biệt trong trái tim tôi”.  Trong một lần thăm VN, ông đã nói với Chủ tịch Nguyễn Minh Triết rằng: “Sáu mươi năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Roosevelt đã muốn hai nước Việt - Mỹ thật sự là bạn. Quá trình này đã có những bước gập ghềnh. Tuy nhiên, tôi vô cùng hạnh phúc chứng kiến quan hệ tốt đẹp giữa hai nước mà đáng lẽ phải có từ cách đây 60 năm”.

TT Bush, trong một diễn văn đọc tại Philadelphia (23/06/04), từ bạn (friend) đã được ông nhắc lại nhiều lần khi nói về quan hệ với Việt Nam: "You’ve got a friend in America". Năm 2006, ông và phu nhân đã sang thăm chính thức VN và dự Hội nghị APEC lần 14. Trong buổi tiếp của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, ông đã cảm ơn về sự đón tiếp trọng thị và nói: “Tôi đã đọc rất nhiều tài liệu về VN và cảm nhận được sự phát triển của VN giống như một con hổ trẻ. Tôi sẽ cố gắng hết sức mình để củng cố mối quan hệ giữa hai nước”.  Sáng 19/11, ông cùng phu nhân tới cầu nguyện tại nhà thờ Cửa Bắc, Hà Nội.
                                                  ***
Mỹ, tên gọi đầy đủ là Hợp chúng quốc Mỹ (tiếng Anh: United States of America), quốc gia được thành lập ban đầu gồm mười ba thuộc địa của Vương quốc Anh. Các tiểu bang đã đánh bại Đế quốc Anh trong Chiến tranh Cách mạng Mỹ, nổ ra từ năm 1775 cho đến năm 1781. Quân đội đã được thành lập dưới quyền Tư lệnh George Washington. Quốc hội đã chấp thuận bản Tuyên ngôn Độc lập do Thomas Jefferson thảo vào ngày 4 tháng 7 năm 1776 và Tổng thống George Washington nhậm chức vào năm 1789 với thủ đô đầu tiên là Thành phố New York. Vương quốc Anh đã phải công nhận chủ quyền của Mỹ vào năm 1783.

Đến cuối thế kỷ 19, Mỹ đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Chiến tranh Thế giới thứ II đã xác định vị thế siêu cường toàn cầu của Mỹ.

Mỹ đã và đang dẫn đầu trong việc nghiên cứu khoa học và sáng tạo kỹ thuật. Một trong những nguyên nhân quan trọng chính là nhờ vào chính sách di dân rộng rãi, Mỹ đã trở thành miền đất thu hút các nhà khoa học đến từ các nước khác, đặc biệt từ Châu Âu khi nhiều người trốn tránh chế độ Phát xít trong Thế Chiến Thứ Hai và Chiến tranh lạnh.  Như hai nhà bác học điển hình là Albert Einstein và Von Braun. Einstein khi đến thăm nước Mỹ, ông quyết định không trở lại Đức khi Adolf Hitler lên làm tổng thống và trở thành công dân Mỹ vào năm 1940. Von Braun, cha đẻ bom bay của quân Đức từng làm dân chúng nước Anh kinh hoàng, nhưng cũng bị Hitler bắt giam nửa tháng vì ông đã chú trọng đến việc chinh phục không gian hơn là tìm cách tàn phá các thành phố London và New York. Năm 1945, quân Đồng Minh tiến vào lãnh thổ Đức, Von Braun quyết định tới gặp quân Mỹ với một gói tài liệu về dự án chế tạo hỏa tiễn liên lục địa và vệ tinh nhân tạo. Ông đã được lên máy bay sang Mỹ. Sau đó, thành công của ông về hỏa tiễn liên lục địa và thám hiểm không gian đã khiến cho toàn thể Thế Giới phải chú ý.

Obama một người Mỹ gốc Phi đầu tiên được bầu làm TT Mỹ. Khi nắm quyền, về chính sách ngoại giao, ông theo đuổi nguyên tắc: “Không đưa quân ra nước ngoài”, “không làm chuyện điên rồ”, tức là không phát động các cuộc chiến tranh như ở Iraq và Afghanistan của người tiền nhiệm, vận động các đồng minh và đối tác hành động tập thể, chia sẻ trách nhiệm và phân tán rủi ro.

Nhưng rồi với Lybia, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry khi trả lời phỏng vấn đã nói về sự thừa nhận sai lầm của ông Obama: "ông coi đó là một sai lầm khi can thiệp vào Libya”. Biết tin, Tổng thống Nga Putin đã bày tỏ sự tôn trọng: “Trước hết, thực tế này một lần nữa khẳng định, nhà lãnh đạo hiện nay của Mỹ là một người đàng hoàng”; “Thật tốt khi người đồng nghiệp của tôi đã đủ dũng cảm để đưa ra những tuyên bố như vậy, không phải ai cũng làm được điều đó”. Ông Obama từng chỉ trích Nhà Trắng về hành động tại Iraq nên Putin nói: “nhưng, thật không may, trong thời gian làm tổng thống Mỹ, ông ấy lại mắc phải chính những sai lầm mà ông ấy từng chỉ trích tại Libya”.

Những bài học thường dễ thuộc nhưng ứng dụng được vào thực tế lại quá khó. Ông Obama cũng như những người tiền nhiệm lại mắc sai lầm mà cựu Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, ông Robert McNamara, đã từng chỉ ra khi kinh qua Chiến tranh VN: “Chúng ta không có quyền tối cao để định hình mọi dân tộc theo hình ảnh của chính chúng ta, hoặc theo hình ảnh mà chúng ta chọn”.

Nước Mỹ là nước đưa ra Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ do Tổng thống Abraham Lincoln đề xuất đúng theo tinh thần của Tuyên ngôn Đảng Cộng Sản của Mác và Ăngghen cho sự bóc lột và sự nô dịch chính là nguyên nhân của đấu tranh giai cấp, nhưng rồi nước Mỹ lại đứng đầu thế giới chống cộng. Có lẽ vì lợi ích quốc gia, phe nhóm, tự tin thái quá vào sức mạnh vật chất, Mỹ đã hiểu sai bản chất nhiều vấn đề nên đã hành động sai, trong đó có việc không hiểu người cộng sản Hồ Chí Minh và ánh sáng văn hóa tỏa ra từ con người bình dị mà vĩ đại ấy.

Rất mong, sau cuộc thăm Mỹ của Thủ tướng VN Nguyễn Xuân Phúc theo lời mới của Tổng thống Donald Trump, lần gặp nhau của lãnh đạo hai nước trong nhiệm kỳ mới, nước Mỹ sẽ tiếp tục hiểu đúng về VN hơn, nhất là vấn đề nhân quyền. VN luôn coi trọng những quyền chính đáng của người dân, nhưng không coi sự quấy rối, chống phá chế độ, chống phá hiến pháp của một số người mà Mỹ còn đang ủng hộ là quyền. 

Tác giả: Đông La
Ngày 30-5-2017

Thứ Hai, 29 tháng 5, 2017

SỰ THẬT LỊCH SỬ KHÔNG THỂ TÔ HỒNG, KHÔNG THỂ BÔI ĐEN

…đất nước đi lên trong một thế giới đầy biến động càng gặp nhiều lực cản và nhiều thử thách. Trong một thế giới phẳng, không thiếu những thông tin đa chiều, mà không mấy người đọc có thời giờ kiểm chứng. Cuốn sách tựa đề "BẢO ĐẠI - TRẦN TRỌNG KIM  và ĐẾ QUỐC VIỆT NAM  (9/3/1945 - 30/8/1945), Trước khi bão lụt tràn tới" nằm trong số đó. Từ lời giới thiệu của Phạm Cao Dương: “Cuốn sách nhỏ này là để tưởng nhớ những người thuộc thế hệ trí thức Tây học đầu tiên của nước Việt Nam mới, còn giữ được tinh thần sĩ phu truyền thống, cùng với tuổi trẻ đương thời đã đứng ra làm việc nước và đã ra đi trong nhiều oan khuất... Đây là một trong những trang sử đẹp của dân tộc Việt Nam, với những người đẹp, việc đẹp, ước nguyện đẹp, tác giả xin được trang trọng gửi tới các bạn trẻ Việt Nam bây giờ, sau này và mãi mãi”. Ông Trần Văn Chánh phàn nàn môn sử học Macxit đã phê phán nặng nề “khiến cho học sinh và thậm chí một số trí thức tương đối trẻ ngày nay không còn biết Trần Trọng Kim là ai và nội các do ông lãnh đạo có vai trò lịch sử như thế nào nữa”, vì theo ông thì: “Về mặt lịch sử, vẫn phải công nhận nội các vừa thành lập ngày 17.4.1945 là chính phủ đầu tiên của Việt Nam theo nghĩa hiện đại, và Trần Trọng Kim đã trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, dù chỉ mới độc lập trên danh nghĩa”!
70 năm, đủ hết một đời người nhưng với lịch sử dân tộc chỉ như một sự thoảng qua. Các tư liệu lịch sử không khó tìm, cả những chứng nhân không phải là đã hết, đủ sức để không bỏ qua những “việc đẹp”, “người đẹp” và “trang sử đẹp”. Vị học giả quen thuộc khả kính Nguyễn Hiến Lê từng nói: “Chép sử thì không ai có thể hoàn toàn khách quan được, chỉ có thể thành thật được thôi. Chỉ ghi lại những việc xảy ra, không tìm hiểu nguyên nhân, không khen không chê, thì theo tôi không phải là viết sử. Có những giá trị tinh thần mà chúng ta phải tôn trọng phải bênh vực, trái lại thì phải chê. Có như vậy mới là thành thực với người đọc và với chính mình”. Mà sự bênh chê cũng không khỏi phụ thuộc vào những thiên kiến khác nhau. Vậy quyền ấy tùy bạn đọc.
Ngày 3/9/1939, nước Pháp tuyên chiến với Đức quốc xã. Cuộc chiến nhùng nhằng vài ba tháng đầu như một trò cười. Nhưng sau khi Hà Lan rồi Bỉ đầu hàng, chiến lũy Maginot thất thủ, thì thủ đô Paris lập tức “bỏ ngỏ” cho đoàn chiến xa của quân đội Hitle tiến vào như trong một cuộc diễu binh! Chính phủ Pháp lùi dần về phía nam, tới Vichy thì tuyên bố “đầu hàng không điều kiện”, biến thành phố nhỏ vốn nổi tiếng vì những suối nước khoáng nay còn nổi tiếng hơn vì là thủ phủ của một chính phủ làm nhơ danh nước Pháp! Ngày 22/6/1946, Đức buộc Thống chế Pétaine, người hùng của nước Pháp cầm bút ký vào hiệp ước đầu hàng ngay trên chính chiếc toa xe lửa lịch sử mà năm 1918, Pháp đã bắt nước Đức bại trận trong Thế chiến thứ nhất làm như vậy! Người Pháp mất nước! Trong khi đó, phát xít Nhật – đồng minh của Đức quốc xã trong “phe trục”, đang mở rộng chiến tranh ở Viễn Đông. Việt Nam là địa bàn chiến lược quan trọng để quân đội Nhật mở đường vào phía Nam Trung Quốc đồng thời áp sát tới các căn cứ Đồng minh ở Thái Bình Dương. Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương hèn nhát, lập tức ngả theo chính phủ Vichy và từng bước đầu hàng phát xít Nhật. Cần để người Pháp biết sức mạnh của mình, khi vừa đặt chân đến Đông Dương, Nhật ra đòn phủ đầu dằn mặt đánh chiếm dễ dàng tỉnh biên giới Lạng Sơn. Pháp liền chịu ký hiệp định Vichy-Tokyo. Để yên lòng kẻ hàng thần mới, Mikado (Nhật hoàng) ra chiếu phủ dụ: “Trẫm vĩ đại. Trẫm lòng lành. Trẫm giải phóng cho các người. Trẫm trông cậy ở các người sẽ cộng tác với Nhật Bản để “phòng thủ Đông Dương” mà chủ quyền Trẫm công nhận là thuộc về nước Pháp”! Thế là để bảo đảm mạng sống cho khoảng trăm ngàn Pháp kiều và quân viễn chinh, mẫu quốc Pháp bỏ rơi gần ba chục triệu dân nô lệ da vàng bản xứ! Pháp chịu để cho phát xít Nhật biến Đông Dương thành nơi trung chuyển và căn cứ hậu cần cùng lời hứa cộng tác về mặt quân sự với Nhật trong trường hợp có sự tấn công của các nước Đồng minh. Tại các bãi bến thủy bộ, hàng ngày tàu biển Nhật ra vào tấp nập, các cuộc chuyển quân và vũ khí phương tiện chiến tranh rầm rập trên các tuyến hỏa xa và xa lộ, các sân bay ở Bắc kỳ được dùng để tấn công các căn cứ và đường  giao thông ở Birmanie, Vân Nam, Tứ xuyên, Trùng Khánh. Máy bay chiến đấu Nhật bay tới bay đi nhào lộn luyện tập ngay trên bầu trời Hà Nội mà không cần xin phép. Đông Dương biến thành bãi chiến trường, chịu những trận oanh kích của máy bay Đồng minh suốt từ Sài Gòn, Đà Nẵng dọc ra Hải phòng, Hà Nội, hàng trăm thường dân bị chết lây! Tuy nhiên bộ máy chính quyền Pháp hầu như vẫn còn nguyên từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở vì người Nhật khôn ngoan chẳng những có được hậu phương ổn định mà còn được cả về kinh tế nữa. Họ thúc ép “gắn liền kinh tế Đông Dương vào kinh tế Nhật”. Gạo và cao su cứ ùn ùn chở sang Nhật hoặc cung cấp cho quân Nhật đóng ở tiền đồn vùng biển phía Nam. Theo tài liệu của chính quyền Decoux thì về gạo đã xuất, năm 1941: 700.000 tấn, năm 1942: 1.050.000 tấn, năm 1943: 950.000 tấn, năm 1944: 900.000 tấn; về cao su và các khoản thương vụ khác trong mấy năm đầu thập niên 1940 đã xuất số lượng tính ra bằng vàng tổng giá trị là 32.620kg (tính tròn), tương đương số tiền lúc đó là 22 tỷ Franc (Bác sỹ Ngô Văn Quỹ: Đêm dài Nhật-Pháp bắn nhau – NXB Trẻ 2001).
Trong khi những người yêu nước Việt Nam mở rộng Mặt trận Việt Minh kháng Nhật ủng hộ Đồng Minh và kêu gọi người Pháp ở đây cùng hợp tác, thì họ tảng lờ đi mà áp dụng chính sách hai mặt: vừa ra sức đàn áp những cuộc nổi dậy của người bản xứ và tích cực đáp ứng những yêu cầu của Nhật, vừa âm thầm lập các tổ chức của riêng họ như Ủy ban giải phóng Đông Dương (Comité de Libération de l’Indochine) và Ủy ban hành động Đông Dương (Comité d’action pour l’Indochine), ngấm ngầm chờ dịp hất cẳng kẻ đến nẫng trên tay miếng mồi ngon của họ. Làm sao qua mắt được Kempeitai! (Kiểu Phòng nhì của Nhật). “Một cuộc chính biến nằm trong chiến lược dài hơi của Nhật, được hoạch định từ lâu, có sự chuẩn bị đến từng chi tiết. Từ khi đặt chân lên đất Đông Dương, họ đã cho mai phục trong các thành phố, các trung tâm lớn nhỏ, ngay cả trong một số dịch vụ của Pháp, những tên tình báo, sỹ quan trá hình dưới các dạng nhà buôn, nhà kỹ nghệ, nhà nghiên cứu, nhà báo... để điều tra tình hình, nắm mọi đầu mối đợi ngày hành động” (BS Ngô Văn Quỹ - sđd).
Khi chủ nghĩa phát xít đã thành tai họa của loài người thì các quốc gia thấy cần liên kết lại tiêu diệt nó. Cùng lúc ở mặt trận châu Âu và châu Phi, quân phát xít Đức, Ý bị đẩy lùi về tận hang ổ của chúng, Hoa Kỳ tham chiến cả trên Đại Tây Đương và Thái Bình Dương, nước Pháp được giải phóng, quân đội Nhật hoàng bị đánh tả tơi cả trên biển và trên lục địa. Đã đến lúc giới quân phiệt Nhật thấy vấn đề Đông Dương không thể tách khỏi những sự kiện đang xảy ra trong vùng Đông Nam Á. Vào những ngày đầu thảng 3/1945, quân Mỹ đã chiếm được đảo Palawan ở Thái Bình Dương, đối mặt với nam bán đảo Đông Dương. Đề phòng tái diễn sự kiện như ở bờ biển Normandie năm trước, lúc này lại có thêm quân Pháp làm hậu thuẫn, tất nhiên là quân Nhật ở Miến Điện, Thái Lan, Malaixia... sẽ hết đường về bảo vệ quốc đảo Phù tang. Phát xít quyết định hất cẳng thực dân. Ngày N, giờ G được xác định.
Yếu tồ bất ngờ được Nhật khai thác đến triệt để trong sự kiện ngày 9/3/1945. Cuộc chính biến xảy ra trên toàn cõi Đông Dương vào cùng một ngày, một giờ gần như thống nhất. Quan lính Pháp qua 5 năm sống yên phận chờ thời, dù thấy sự nghi ngờ cũng dễ bỏ qua, giờ vỡ ra thì không kịp trở tay. Mở đầu vào đêm 9/3 bằng những “bữa tiệc máu” và kết thúc lúc sáng hôm sau bằng những cuộc chém giết như thời trung cổ. Khi tiếng súng lệnh nổ thì những tên lính cải trang mà dân chúng ở các thành phố Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Sài  gòn... đã quen mặt, hàng ngày tỏ ra lịch thiệp, dễ dãi, bỗng khoác quân phục vào và trở thành những con quỷ dữ khát máu, giết người không gớm tay. Riêng đối với các binh sỹ người Việt Nam thì được đối xử tử tế vì là đồng thanh, đồng chủng, cùng trong Khối thịnh vượng chung. Chỉ trong một đêm, trên toàn cõi Đông dương đã có 2.650 binh sỹ và sỹ quan da trắng bị giết. Trong đó phải kể đến: 1 tướng, 9 đại tá, 20 thiếu tá, 60 đại úy, 91 trung úy, 9 bác sỹ và một thú y bác sỹ. (BS Ngô Văn Quỹ - sđd).
Kết cuộc là hệ thống cai trị thực dân hoàn toàn tan rã. Toàn bộ quan chức đầu não và tướng lĩnh Tư lệnh các cấp của Pháp đều bị bắt giam, kể cả Toàn quyền Decoux. Hàng trăm sỹ quan và hàng ngàn binh lính bị chết ngay tại trận hoặc trên các ngả đường trốn chạy. Cả sáu Tập đoàn quân trên toàn cõi Đông Dương như ong vỡ tổ, mạnh ai nấy chạy vào các cánh rừng, tìm lối thoát sang Thái Lan, Miến Điện. Số lớn chạy qua Trung Quốc thì lại bị người Mỹ, người Hoa coi như kẻ thù, bị tấn công, bị xua đuổi từ làng này sang làng khác, bị đói khát, bệnh tật... quân số thương vong thêm quá nửa!
Tại kinh đô Huế, cuộc chính biến nổ ra lúc 9giờ15phút đêm 9/3, đến 10giờ sáng hôm sau thì kết thúc. Một phần tư trong số hơn một ngàn sĩ quan binh lính Pháp tử trận. Số còn lại hoặc bị bắt hoặc tẩu tán sâu vào dãy Trường Sơn. Lúc 11 giờ, Khâm sứ Nhật Yokoyama vào gặp vua Bảo Đại giải thích tình hình, tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, đề nghị vua ra tuyên bố độc lập và chuẩn bị thành lập chính phủ mới trên cơ sở  hợp tác dưới sự bảo trợ của Nhật! Cùng lúc đó, qua đài phát thanh Sài Gòn, Nhật thanh minh cho cuộc tấn công đêm 9/3, đổ lỗi cho phía Pháp thiếu hẳn tinh thần cộng tác, đã tổ chức mạng gián điệp làm việc cho quân Đồng minh, đã tích trữ súng đạn được thả dù xuống, bố trí quân đội để tấn công quân Nhật. Đồng thời cũng tuyên bố từ nay chủ quyền của Pháp ở Đông Dương không còn nữa, các dân tộc ở đây được độc lập nhưng trước mắt vẫn duy trì toàn bộ hệ thống tổ chức chính trị và hành chính của Pháp để lại trên toàn cõi Đông Dương. Ngay hôm sau, 11/3/1945, triều đình Huế tuyên bố: “Theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp (1884) được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia độc lập!” (Hồi ký Phạm Khắc Hòe). Nhật không dễ nhả ra miếng mồi Đông Dương béo bở. Trong khi vua tôi nhà Nguyễn đang loay hoay tìm người lập nội các mới thì ngày 30/3/1945, trong một cuộc họp với công chức Việt Nam ở Long Xuyên, Toàn quyền Minoda (từng học Saint Cyr) nói toạc ra bằng tiếng Pháp để không ai nhầm lẫn: “Il-y-a un grand malentendu au sujet de l’indépendance de l’Indochine. Celle ci tout entière est sous le contrôle militaire du Japon. L’indépendence de l’Empire d’Annam et cellce du Cambodge on été pro clameés. La Cochinchine, non seulement se trouve sous le contrôle militaire du Japon, mais encore sous l’aminis tration militaire japonaise. Donc, pas l’indépendance de la Cochinchine...” (Có một sự hiểu lầm lớn về sự độc lập ở Đông Dương. Sự độc lập này là hoàn toàn ở dưới sự kiểm soát quân sự của Nhật Bản. Sự độc lập của đế chế Trung Kỳ và cũng như của Cao Miên đã được tuyên bố. Nam Kỳ chẳng những ở dưới sự kiểm soát quân sự mà còn dưới cả sự cai trị quân sự của Nhật Bản. Vậy thì không có sự độc lập của Nam Kỳ) (BS Ngô Văn Quỹ - sđd). Sự thực là gần đến những ngày tàn Nhật mới chịu giao lại ba tỉnh nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng (20/7), sau cùng là Nam Kỳ (14/8), đúng vào ngày Nhật ký hiệp ước đầu hàng không điều kiện Đồng minh chống phát xít.
Tất nhiên, việc tìm một chính quyền tay sai người bản xứ cũng được Nhật tính trước từ lâu. Cụ Huỳnh Thúc Kháng là một yếu nhân trong phong trào Duy Tân, được nhắm tới đầu tiên, đã thẳng thắn khước từ. Nhưng cách mạng tháng Tám thành công, sau khi tiếp xúc với Hồ Chủ tịch, Cụ nói: "Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng ra sức phụng sự Tổ quốc”. Và Cụ đã làm được những việc to lớn thiết thực cho việc bảo vệ chính quyền nhân dân non trẻ. Nhà yêu nước Nguyễn An Ninh đang bị cầm tù ở Côn Đảo, Nguyễn Hòa Hiệp là người quen biết cũ, đương nhiệm chức sư trưởng đệ tam sư đoàn của Nhật, dẫn một viên tướng Nhật ra đảo mời hợp tác nhưng ông kiên quyết từ chối mặc dù ông biết “Nếu phải hoàn thành xong hình phạt tù tại Côn Nôn, tôi chắc chắn phải để xương tại đây”! Nửa tháng sau, ông trút hơi thở cuối cùng tại nơi địa ngục trần gian ấy! (Nguyễn An Ninh qua hồi ức của những người thân – NXB Văn học 2009). Đó thật sự là những con người đẹp, làm việc đẹp và viết nên trang sử đẹp, đáng là niềm tự hào cho mỗi người Việt Nam ta. Ngô Đình Diệm cũng được Nhật để mắt tới nhưng họ không lạ gì con người này. Trong tình thế ấy, Trần Trọng Kim là sự lựa chọn cuối cùng. Ông được Nhật đưa sang Chiêu Nam Đảo (Singapour) trước đó cả năm trời, qua Băng Cốc (Thái Lan), về Sài Gòn, ra Huế vào giờ phút chót. Ông viết trong hồi ký “Một cơn gió bụi”:
“Có một điều nên nói cho rõ, là trong khi tôi chọn người lập chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản không bao giờ hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn toàn tự chủ tìm lấy người mà làm việc. Và tôi đã định từ trước rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc trong nước thì tôi thôi ngay, không làm nữa.
“Chừng mười giờ sáng ngày 17 tháng tư năm 1945, tôi đem danh sách ấy vào trình vua Bảo Ðại. Vào đến nơi, tôi thấy ông Yokohama, tối cao cố vấn Nhật, đã ngồi đó rồi. Ông thấy tôi vào liền hỏi: “Cụ đã lập thành chính phủ rồi à?”. Tôi nói: “Vâng, hôm nay tôi đem danh sách các bộ trưởng vào tâu trình hoàng thượng để ngài chuẩn y”.
“Tôi đệ trình vua Bảo Ðại, ngài xem xong phán rằng: “Ðược”. Khi ấy ông Yokohama nói: “Xin cho tôi xem là những ai”. Ông xem rồi, trả lại tôi và nói: “Tôi chúc mừng cụ đã chọn được người rất đứng đắn”. Sự thực là thế, chứ không như người ta đã tưởng tượng là người Nhật Bản bắt tôi phải dùng những người của họ đã định trước”.
Có ai không nghĩ rằng đó là vở kịch được người Nhật dàn dựng từ đầu chí cuối?
Ngày 8/5/1945, chỉ một ngày trước khi phát xít Đức đầu hàng Đồng Minh, tại Huế, Hoàng đế Bảo Đại đọc Tuyên chiếu thành lập nội các. Tân Tổng trưởng đưa ra bản Tuyên cáo khẳng định nền độc lập mới có được sau 80 năm bị Pháp áp chế và cám ơn Nhật Bản đã ra tay “giải phóng”, kêu gọi “Quốc dân phải cố gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thật hợp tác với nước Đại Nhật Bản”, lấy quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam, quốc kỳ Quẻ Ly đỏ trên nền vàng (ứng với hoàng đế làm chủ phương Nam). Bà con kinh đô nhạo là “vương rút ruột”. Vấn đề là có thật Nhật “giải phóng” cho Việt Nam không, hay chỉ là động tác tháo vòng xích cũ, choàng vào cổ cái vòng xích mới xiết chặt hơn để kéo dài cơn hấp hối của tên phát xít cuối cùng?!
    Kế hoạch của tân chính phủ đưa ra thì nhiều nhưng chỉ là những ý tưởng hão huyền. Trước hết vì chính quyền quân phiệt Nhật kiềm chế khắt khe cả về mọi mặt. Trong khi chính phủ thì “hữu danh vô thực”: Không lực! Không quyền! Không được nhân dân ủng hộ! Mặt trận Việt Minh kêu gọi phải tận dụng thời cơ, tự ta giải phóng cho ta, đồng thời cảnh báo những ai nhẹ dạ cả tin: “Lợi dụng Nhật tức là tự để mình cho Nhật lợi dụng; lợi dụng Nhật, đi theo Nhật tức là trốn ra ngoài hàng ngũ kháng Nhật cứu nước mà toàn thể đồng bào đương hăng hái bước vào; lợi dụng Nhật là “đánh đu với tinh”; lợi dụng Nhật là tự tử” (Báo Cứu quốc, số 24 ngày 25/6/1945). Yêu cầu bức thiết lúc bấy giờ là cứu đói. Trong khi các kho thóc đầy ắp, ngoài việc cấp ăn cho lính còn dùng thay than cho các tàu thủy, tàu hỏa và nhà máy! Khắp Bắc Kỳ, nhiều làng vắng tanh không một bóng người, cảnh chết đói đầy đường, đầy phố! Việt Minh hô hào phá kho thóc Nhật cứu đói cấp thời, thì tân Chính phủ lại công bố: “Chúng tôi vẫn hợp tác chặt chẽ với nhà đương chức Nhật Bản” và ra lệnh kết án tử hình những ai cướp phá kho tàng ngũ cốc! Cái gọi là Bộ Tiếp tế làm được vài việc vặt, coi như vô dụng! Bộ Tài chính chuyên làm một việc gom tiền thuế của dân giao cho giặc! Chỉ riêng trong 5 tháng tồn tại, Chính phủ Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật khoản tiền 720triệu Đồng Đông Dương (Piastre), không thua số tiền 726triệu do chính quyền Decoux nộp trong 5 năm (1940-1945). Cụ thể là: 1940: 6tr; 1941: 58tr; 1942: 86tr; 1943: 116tr; 1944: 360tr; 1945 cho đến ngày 9/3: 100tr. Tổng cộng trong thời gian Thế chiến hai, chính quyền Đông Dương đã nộp cho Nhật 1tỷ446 triệu Piastre, tương đương 14tỷ460 triệu Franc lúc đó (BS Ngô Văn Quỹ - sđd). Thật sự đó là tội ác với nhân dân và lịch sử mà chính quyền Trần Trọng Kim không thể chạy tội được! Vai trò lịch sử của nội các do ông lãnh đạo thực chất là như thế. Dù rằng thành viên trong nội các đều là những người có đủ học thức và đức hạnh, chánh trực thanh liêm, lúc hữu sự muốn góp phần mình giúp nước nhưng trước thực tế đều thấy bị cô lập và bất lực, rã đám dần.  Sau cách mạng tháng Tám, phân nửa các vị theo Chính phủ kháng chiến cho tới ngày thắng lợi hoàn toàn. Một số ra định cư ở nước ngoài và hầu như không có ai hợp tác với các chính quyền tay sai ngoại bang sau đó. Luật sư Phan Anh, người sớm nhận ra sự thật, đứng hẳn về phía cách mạng và có những đóng góp to lớn, sau này viết: “Chúng tôi đã lầm rất lớn. Chúng tôi đã tưởng lợi dụng được một đế quốc chống một đế quốc khác, tranh thủ quyền lợi về ta, nhưng trái lại bọn Nhật đã lợi dụng chúng tôi, ít nhất cũng là về danh nghĩa. Đó là một bài học đau đớn!” (Phan Anh – Con đường đi tới cách mạng tháng 8 của tôi – Báo Nhân dân số 2346 ngày 21/8/1960). Giả như có một “khoảng trống quyền lực” mà nhân dân không được tổ chức, không có lực lượng thì làm sao giành được chính quyền? Huống chi quyền lực vẫn nằm trong tay quân phiệt Nhật tới giờ phút chót! Đó là sự thật lịch sử! Riêng vị Tổng trưởng nội các, sau khi quân Nhật bị giải giáp về nước, cách mạng tháng Tám thành công, quân Pháp quay lại tái xâm lược Việt Nam, ngài lại tìm đến cố vấn Vĩnh Thụy đang đào tẩu ở Hương Cảng, theo lời phế đế về Sài Gòn nghe ngóng. Ở đây, vị học giả đã nhìn ra chân tướng cái xã hội nhố nhăng này: “Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Liên hiệp Pháp chỉ là một thứ cũi chó mạ vàng! Còn về phương diện người mình, thì không có gì đáng vui, phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả!”. Và nhìn ra một sự thật là: “Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có Việt Minh mới làm nổi”. Tuy nhiên nhà nho vẫn loanh quanh xứ trời nam, hy vọng  được mời ra hợp tác với lời an ủi của bậc thánh hiền: “Dụng chi tắc hành. Xả chi tắc tàng” (Dùng thì ra làm việc. Bỏ thì ở ẩn). Mòn mỏi đợi chờ, trước khi bỏ xác xứ người, ông thầy ngán ngẩm thở than: “Nghĩ cho cùng, ở đời chẳng cái đếch gì ra cái đếch gì”!
Hậu luận:        
Một: Khi Thế chiến thứ II sắp kết thúc, Nhật còn muốn nắm lực lượng thanh niên để phục vụ mưu đồ riêng. Ở Nam Kỳ Nhật mời Bác sỹ Phạm Ngọc Thạch lập Thanh niên Tiền phong, biểu trưng là cờ nền vàng sao đỏ (thực ra xứ ủy Nam Kỳ đã chủ động nắm tổ chức này). Nhật cũng vận động Bộ trưởng Phan Anh lập ra tổ chức thanh niên. Lúc này ở Bắc Kỳ đã có “Đoàn Thanh niên cứu quốc” trong đoàn thể Việt Minh. Tổ chức “Thanh niên Phan Anh” ra đời ở Huế. Ông bàn với giáo sư Tạ Quang Bửu là người có ảnh hưởng rất lớn trong giới học sinh ở Huế đứng ra mở “Trường võ bị thanh niên tiền tuyến” và mời ông Phan Tử Lăng – võ quan chỉ huy lực lượng Bảo an binh ở kinh đô Huế và cả Trung kỳ, làm Hiệu trưởng. Các ông đều có tinh thần dân tộc cao và sớm liên hệ với Việt Minh. Nhà trường kêu gọi: “Đất nước ta sẽ rất cần thanh niên có học, có hiểu biết về quân sự” và hứa: “Học xong không bắt buộc ra làm việc cho chính phủ”! Thực chất là chủ động chuẩn bị bổ sung cho lực lượng vũ trang yêu nước khi cần. Số người ghi danh vào học khá đông, có cả một số sinh viên từ Hà Nội vào theo học. Lá “cờ quẻ kiền” ba sọc đỏ (tượng trưng cho người quân tử làm điều nghĩa hiệp), được lấy làm biểu tượng của thanh niên Võ bị. Vậy là Mặt trận Việt Minh thông qua những người yêu nước, chủ động biến tướng một tổ chức phục vụ cho ý đồ của Nhật thành một tổ chức nòng cốt của mình. Cách mạng thành công, đổi tên là “Trường võ bị Thuận Hóa” và mở rộng thành phong trào “Thanh niên tiền tuyến”, góp phần đẩy mạnh phong trào “Nam tiến” sôi động trong cả nước, bổ sung tiếp ứng kịp thời cho mặt trận phía Nam. Nước nhà vừa độc lập thì bước ngay vào cuộc kháng chiến từ Nam lan nhanh ra Bắc. Cũng như Thanh niên Tiền phong,  Thanh niên Tiền tuyến chấm dứt vai trò lịch sử, hợp nhất vào tổ chức Thanh niên cứu quốc trong Mặt trận Việt minh. Cuộc trường kỳ kháng chiến giành thống nhất, độc lập kết thúc thắng lợi, tám học viên khóa đầu của Trường võ bị được phong quân hàm cấp tướng (Hồi ký của Thiếu tướng QĐNDVN Mai xuân Tần).
    Nhân chuyến công cán qua Trung Quốc, Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy đào nhiệm và lưu trú ở Hồng Công. Giữa năm 1948, kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” thất bại, chủ cũ tìm đến ký với phế đế cái gọi là Hiệp định Hạ Long, công nhận nền độc lập của Việt Nam  nằm trong khối Liên hiệp Pháp và lập ra cái chính phủ quốc gia! Phục dựng lá “cờ quẻ kiền” làm quốc kỳ và lấy bài hát “Tiếng gọi thanh niên” (của Lưu Hữu Phước) ra đời trong phong trào thanh niên tiền khởi nghĩa, làm quốc ca. Ngay lập tức, Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh ra tuyên bố cảnh cáo: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẽ theo pháp luật nước nhà trừng trị bọn phản quốc ấy. Đối với các nước trên thế giới, tôi thay mặt chính phủ và nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trịnh trọng tuyên bố không bao giờ thừa nhận những giấy tờ gì do bọn bù nhìn ấy ký kết với bất cứ nước nào”!
“Quân đội quốc gia” được gấp rút nặn ra. Với lệnh Tổng động viên, học sinh trung học ở các thành thị trong vùng tạm chiếm bị dồn vào các trường sỹ quan trù bị Nam Định, Thủ Đức và Võ bị Đà Lạt. Lá “cờ quẻ kiền” với bài ca vốn ra đời từ phong trào yêu nước sôi nổi chống ngoại xâm nhưng đã bị đánh tráo nhận vơ cho cái quốc gia ngụy tạo! Từ đấy “cờ quẻ kiền” hết đi sau “cờ tam tài” rồi “cờ hoa” trong những cuộc trà sát khủng bố giết chóc đồng bào ta!
Hai: Thế kỷ XX trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thật vô cùng bi tráng. Cuộc chiến tranh giải phóng quyết liệt lâu dài không có chỗ cho người đứng giữa. Người ta chỉ có thể đứng ở phía bên này hay ở phía bên kia. Đó là bi kịch! Như tâm tư buồn của một trí thức lớn thì “dù là người dân bình thường kể cả kẻ sỹ vẫn phải chấp nhận thực tế để tiếp tục sống và làm cái gì đó có ích cho đời”! Đó là thực tế đớn đau của nhiều thế hệ trong một thời kỳ lịch sử khắc nghiệt.
Cuộc chiến quyết liệt không thể tránh những biểu hiện cực đoan gây nên những oan trái làm tổn hại tính mạng và tinh thần cho người cả hai phía. Khi thời gian làm rõ ra ý nghĩa của thắng lợi thuộc về tổ quốc và nhân dân, hóa giải là điều không khó.
Dù sao hậu thế có cái nhìn thông cảm cởi mở, khoan dung, gạn đục khơi trong, tiếp thu có chọn lọc những cống hiến hữu ích của những con người tài năng chìm nổi trong hoàn cảnh ấy. Nhưng phải dứt khoát rõ ràng. Sự thực lịch sử không thể tô hồng, không thể bôi đen. Trên giá sách của người viết vẫn giữ cuốn Việt Nam sử lược do thân phụ để lại từ giữa thế kỷ trước, được dùng để tra cứu các niên đại, triều đại và sự kiện liên quan mỗi khi cần. Còn như đánh giá thế nào thì xin mách ông Trần Văn Chánh tìm đến cụ An Chi chỉ giáo cho. Bài học lịch sử cần rút ra là học thuật và chính trị đòi hỏi những phẩm chất khác nhau. Sai lầm học thuật, cùng lắm hại cho uy tín một người. Sai lầm chính trị hậu họa khôn lường. Tấm gương của học giả họ Trần đủ để hậu thế soi chung! 
“Phải tôn trọng sự thật lịch sử” – Đó là câu khai vị của bất kỳ ai khi nói về lịch sử. Gần đây, người ta đưa ra lý lẽ: “Dù sự kiện sử học chỉ xảy ra có một lần nhưng phải viết lại nhiều lần vì phương pháp luận sử học ngày càng được nâng cao”! Phương pháp luận sử học là bài học khai tâm cho những người học sử và nó chỉ được làm mới khi có những phát hiện mới, được xác minh dưới cái nhìn khoa học. Thực tế là nhiều vấn đề lịch sử đang bị đảo lộn tùng phèo bởi những sự kiện lịch sử lâu nay chỉ có thế nhưng vì lòng người thay đổi nên họ cứ viết lại theo ý họ, gọi đó là cái nhìn mới trên cơ sở phương pháp luận sử học mới và bằng nhiều mánh khóe cách tân khua chiêng gõ mõ, làm rối loạn lòng người!
Lịch sử từ nhân dân mà ra, do nhân dân làm nên và vì nhân dân mà viết sử.  
                                                  

Tác giả:  Nguyễn Văn Thịnh
Tuần báo Văn nghệ TP.HCM                                                  
Số 451, thứ năm ngày 25 tháng 5 năm 2017

Thứ Hai, 22 tháng 5, 2017

VỀ NGƯỜI BỐ CỦA EMLILY PAGE - LE

(Emily Page - Le cùng các linh mục phản động)
Về thân thế của Emily Page - Le đã được giải mã khá chi tiết, tuy nhiên, xung quanh Việt kiều xuất hiện tại giáo phận Vinh thời gian qua này cũng có không ít những câu hỏi khác được nêu ra! 

Theo đó, rất nhiều người đã băn khoăn tại sao một người trẻ như Emily (cô này sinh năm 1984) lại có thể điên cuồng chống Cộng đến như thế dù chính cô không liên quan quá nhiều tới một chế độ chính trị quá vãng kết thúc vai trò cách đay 42 năm (30/4/1975). Cô cũng không sinh ra trên đất Việt để đến nỗi khắc cốt ghi tâm mối thù của những kẻ thua trận có tâm tưởng hoài cổ. 

Nhưng thật may khi những tiết lộ mới đây từ một Fb cá nhân về bố của Emily Page - Le đã giải mã khá rõ nguyên nhân của những điều băn khoăn nói trên. 

Xuất thân là lính đặc nhiệm, trung đoàn bộ binh số 4 (SGT/E-5), thuộc sư đoàn bộ binh 18, sang Việt Nam tham chiến từ tháng 3/1965 đến tháng 3/1968. Bố Emily Page - Le là ông George William Page được giao nhiệm vụ "chiến đấu" ở Lộc Ninh và Campuchia. 

Dù chỉ có 03 năm tham chiến tại Việt Nam nhưng với những chiến tích đặc biệt, George William Page được trao huân chương chiến thắng của quân đội Mỹ trước khi giải ngũ và về Mỹ sinh sống. 

Về Mỹ, George William Page "được đào tạo một trường chuyên ngành "liên kết", "thiết kế tương tác", "giáo dục cộng đồng" và "kỹ thuật hướng nghiệp"... với tư cách là các NGO bình phong mà CIA sử dụng để thâm nhập thực địa trên một không gian địa lý nhất định". 

Sống trong một gia đình như thế, thật dễ hiểu tại sao Emily Page - Le lại được hơi hướng theo con đường mà không mấy thanh niên Mỹ thế hệ Việt Kiều này đi theo. Ngoài ra, chính việc học hành dở dang, thấp kém đã khiến Emily Page - Le nhanh chóng chấp nhận và xem đó như một cái nghề kiếm cơm gắn bó cả đời! 

Một chi tiết mà những ai theo dõi trước, trong và sau vụ việc 15/5/2017 tại Quốc lộ 1A đoạn đi qua xã Diễn An, Diễn Châu, Nghệ An là cùng với sự xuất hiện của nữ Việt kiều còn có sự góp mặt của 02 ông Tây. 


Không chỉ có mặt có tính đơn thuần tại Giáo xứ Song Ngọc, Phú Yên và một số xứ khác. 02 ông Tây này đóng vai trò như những kẻ kết nối, lĩnh xướng cùng với Emily Page - Le. Và dù chưa có những bằng chứng để nói rằng, đó là những nhân vật có tính vệ tinh mà các Ngo bình phong của CIA đang tung ra để hoạt động tại Việt Nam. 

Nói như thế để thấy rằng, Emily Page - Le không phải là một nhân vật tầm thường. Cô ta về tại Giáo phận Vinh không để vui chơi như trong nội dung đăng ký nhập cảnh về Việt Nam.

Ngày 22/5/2017
Tác giả: An Chiến

SAO CHÍNH QUYỀN HAI TỈNH MIỀN TRUNG CHẬM XỬ LÝ VẬY?

Quốc lộ 1A (QL1A) là con đường huyết mạch của đất nước ta, nơi hàng ngày có hàng vạn chuyến xe vận chuyển hàng hóa - của cải - tiền bạc - lương thực... bị những linh mục phản động miền Trung  xúi dục giáo dân ùa ra đường bao vây cô lập không cho ai qua lại, mục đích của bọn chúng là phá hoại kinh tế của đất nước đã quá rõ ràng. Chúng nhân danh này, nhân danh nọ như: môi trường, tín ngưỡng... chỉ là trò bịp bợm hòng lôi kéo quần chúng làm loạn, cản trở sự phát triển của đất nước mà thôi. Chúng được bọn phản động nước ngoài tài trợ về tài chính để gây rối trật tự xã hội - phá hoại kinh tế, mục đích cuối cùng của chúng là làm cho đất nước quay lại cảnh nô lệ năm nào cho ngoại bang.

Về mặt Chính Trị thì chúng cũng chỉ là đám tay sai hạng 3 của bọn phản động nước ngoài mà thôi.
- Chúng chẳng bao giờ có tiếng nói gọi là "đối trọng" với nước khác nếu giả sử chúng lật đổ Chính Quyền thành công, vì tiền thân của chúng trước đây tuy có chính quyền và cũng là "đồng minh" của Mỹ nhưng chưa bao giờ có một tay tổng thống nào của chúng được đặt chân vào Nhà Trắng cả! Cứ hễ tổng thống nào cãi lời bọn cố vấn Mỹ thì kết cục đều chết thảm.
Hẳn các bạn còn nhớ Maidan ở Ukraina năm 2014?
- Rút cuộc cái gọi là "đấu tranh vì dân chủ - nhân quyền" đưa đất nước Ukraina đi vào nội chiến đến bây giờ vẫn chưa kết thúc, chết hàng triệu người, đất nước tan tành vì bom đạn, nợ nước ngoài ngập đầu, các chính trị gia trong chính quyền Kiev thì lên truyền thông "chém gió" như dân ngáo đá.
- Hay là "Mùa xuân Ả Rập" ở Bắc Phi - Trung Đông cũng tương tự. Kết quả là hàng chục nước chìm trong khói lửa của chiến tranh, bởi những trò bịp bợm dân chủ - nhân quyền của ngoại bang vẽ ra!
- Hay Rumania năm 1988 cũng thế, cũng vì dân chủ - nhân quyền và cái gọi là "tôn giáo"! cuối cùng đất nước tan tành, nợ nần chồng chất... và bây giờ có lẽ đó là thiên đường ma túy và tội phạm ở châu Âu.

Ở đất nước ta bọn phản động đang manh nha ngón "dân chủ - nhân quyền - tôn giáo tín ngưỡng" như kịch bản ở các nước Trung Đông - Bắc Phi, Ukaina... hòng đưa đất nước đi đến chiến tranh loạn lạc.
- Mục đích của chúng là kích động bạo loạn, lật đổ chính quyền để bọn buôn bán vũ khí tha hồ thao túng.
- Dựng lên một chính quyền tay sai như thời trước 1975 ở Miền Nam, để các thế lực thù địch phương tây mặc sức sai bảo, vơ vét tài nguyên - của cải của quốc gia.

Hành vi chặn QL1A là phá hoại kinh tế của đất nước mà thôi. Thử hỏi một chuyến xe chở hàng đông lạnh khi trễ giờ vận chuyển thì thiệt hai của nó là bao nhiêu, đó là chưa kể những chuyến xe chở người lao động tạo ra của cải khi lưu thông trên đường nếu bị ùn tắc nhiều giờ hoặc nhiều ngày. Thiệt hại về kinh tế là vô cùng lớn. Mỗi một mảng chúng phá hoại một ít, góp lại sẽ là rất lớn, khiến đất nước sớm kệt quệ và loạn lạc là tất yếu.

Bên cạnh đó, chiêu trò "bất đồng chính kiến" cũng chỉ là trò bịp bợm của các thế lực thù địch vẽ ra để quấy rối nước ta hòng tạo cớ can thiệp quân sự nhằm lật đổ chính quyền Việt Nam mà thôi. Cộng Sản hay Tư Bản, một Đảng hay đa đảng cũng như nhau cả. Cứ nhìn vào Liên bang Nga mà xem, họ bây giờ có còn là Cộng Sản nữa đâu nhưng không thực hiện theo yêu sách của bọn sen đầm quốc tế thì vẫn bị bao vây cấm vận như thường; Syri, Irăq... cũng có phải Cộng Sản đâu, nhưng Hoa Kỳ vẫn nhảy vào chém giết hàng chục năm nay có tổ chức quốc tế nào dám ngăn cấm họ đâu.

Đến giờ phút này nhiều tổ chức, cá nhân khắp ba miền của đất nước đang vô cùng phẫn nộ trước những hành vi ngông cuồng kích động giáo dân, thách thức chính quyền của các chủ chăn phản động miền Trung. Chúng ngang nhiên bao vây tấn công các trụ sở cơ quan công quyền miền Trung như chốn không người, tự ý chặn đường quốc lộ huyết mạch khiến hàng vạn người dân lương thiện bị ảnh hưởng. Ngược lại chính quyền địa phương thì lúng túng, nhu nhược làm cho phép nước bị mai một, lòng dân bị xói mòn. Không lẽ để nhân dân bức xúc tự sử dụng "luật rừng" để đối phó với đám phản động nhân danh Chúa này thì còn gì là bộ mặt của chính quyền nữa. Hỡi các cơ quan chức năng từ TW đến địa phương của hai tỉnh miền Trung sao chưa khẩn trương xử lý những cái gai độc trên? Các anh đang sử dụng tiền thuế của dân một cách kém hiệu quả đấy.

Ngày 22/5/2017


SH

Thứ Ba, 9 tháng 5, 2017

LM. ĐẶNG HỮU NAM HẾT CHỐN DUNG THÂN

Người dân Nghệ An phản đối Đặng Hữu Nam
Một người bị cả cộng đồng tẩy chay, lên án có lẽ là người đáng thương nhất. Cái sự thương ở đây nó đồng nghĩa với 2 từ "thương hại". Bạn biết không, tôi thương hại cho con người có tên Đặng Hữu Nam, mà nói thật tâm tôi cũng không chắc thứ "cảm tình" tôi dành cho con người này là sự thương hại hay sự khinh bỉ nữa?

Hành động lợi dụng trẻ em giáo dân căng băng rôn khẩu hiệu để phục vụ cho việc rao giảng xuyên tạc, sai sự thật về ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975) của Đặng Hữu Nam, linh mục quản xứ Phú Yên có lẽ đã gây nên những làn sóng phản đối dữ dội.

Chỉ mấy ngày trước thôi (01/5), các Hội cựu chiến binh đã tổ chức họp để phản đối những hành vi đi ngược luân thường đạo lý của linh mục Đặng Hữu Nam. Những người chiến sỹ đã từng hi sinh máu thịt, hi sinh tuổi thanh xuân của mình cho nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đã có hành động đáp trả sự phỉ báng lịch sử của tên "Linh mục bẩn" một cách quyết liệt. Họ đề nghị cơ quan chức năng các cấp xử lý Đặng Hữu Nam theo quy định của pháp luật; yêu cầu hắn phải nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, không có những lời nói kích động bà con giáo dân và phải nói lời xin lỗi trước toàn thể nhân dân. 

Sự phẫn nộ của nhân dân lên đến đỉnh điểm khi ngày 06/5 vừa qua khoảng 2.000 người dân tại xã Sơn Hải, Quỳnh Lưu, Nghệ An cùng các hội viên Hội Phụ nữ với rất nhiều băng rôn, khẩu hiệu đã cùng nhau tập trung tẩy chay, lên án hành vi ngông cuồng bất chấp pháp luật, vi phạm giáo luật Đặng Hữu Nam. 

Bà Phạm Thị Hải Yến, Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ Quỳnh Lưu bức xúc phát biểu: “Yêu cầu linh mục Đặng Hữu Nam chấp hành nghiêm pháp luật, không có những lời nói kích động bà con giáo dân làm những việc vi phạm pháp luật để kẻ xấu lợi dụng lôi kéo gây mất an ninh trật tự và an toàn xã hội. Dừng ngay mọi hành động nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Có lời xin lỗi trước nhân dân những phát ngôn xuyên tạc lịch sử, ý nghĩa và phủ nhận thành quả cách mạng mà biết bao thế hệ người dân Việt Nam đã đổ công sức, máu và nước mắt để có được ngày chiến thắng 30/4/1975”.

Bên cạnh đó, nhiều người dân đã lên tiếng đề nghị Tổng Giám mục giáo phận Vinh, Quản hạt Thuận Nghĩa có biện pháp ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật của linh mục Đặng Hữu Nam. Đây có lẽ là những phản ứng mạnh mẽ nhất của quần chúng nhân dân dành cho những hành vi bỉ ổi của con quỷ đội lốt thầy tu Đặng Hữu Nam chứ không phải là sự đấu tố như những gì bọn zâm chủ phản động rêu rao. Con người muốn sống đúng nghĩa, muốn tồn tại, có chỗ đứng trong cộng đồng là phải nhận được sự tin yêu, tín nhiệm của tập thể. Tôn giáo luôn hướng thiện, con người dù là có theo đạo hay không cũng cần biết tôn trọng lịch sử. Một kẻ ăn cháo đá bát, đi ngược lại với đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc như Đặng Hữu Nam không xứng đáng được chúng ta tôn trọng.


Nguồn: GĐTT
Ngày 09-05-2017